Tóm tắt: Công tác đảng, công tác chính trị và xây dựng “thế trận lòng dân” trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một mẫu mực về xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí quyết đánh, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đây là bài học có giá trị lịch sử, và ý nghĩa sâu sắc cần tiếp tục vận dụng vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới, góp phần đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: Đại thắng mùa Xuân năm 1975; kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; Quân đội nhân dân Việt Nam.
Abstract: Party work, political work, and the building of the “people’s heart and mind posture” during the Great Spring Victory in 1975 serve as a model for fostering political steadfastness and the determined will to defeat invading enemies. This represents a historical lesson of profound significance that must continue to be applied in building the Vietnam People’s Army to meet the requirements and tasks of the new era, contributing to the nation's steady progress into a new era - the era of the national rise - and to the solid construction and defense of the Socialist Republic of Vietnam.
Keywords: Great Spring Victory in 1975; the resistance war against the U.S imperialists for national salvation; Vietnam People’s Army.
![]() |
Cần phát huy bài học công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng lực lượng và “thế trận lòng dân” của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ mới. |
Bài học công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng lực lượng và “thế trận lòng dân” của Đại thắng mùa Xuân năm 1975
Thứ nhất, bài học công tác đảng, công tác chính trị về động viên xây dựng lực lượng của Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975 dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh đã lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng được các binh đoàn chiến lược lớn. Phát huy khí thế và quyết tâm sau những thắng lợi từ hai đòn tiến công chiến lược ở Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo nhanh chóng, cơ động hầu hết lực lượng chủ lực từ miền Bắc, miền Trung vào địa bàn chiến dịch, tổ chức thành công nhiều binh đoàn chiến lược hành quân thần tốc đường dài, vừa đi, vừa chuẩn bị chiến đấu, vừa chiến đấu và đã tập kết vào tới chiến trường đúng thời gian quy định.
Với quyết tâm giành thắng lợi trọn vẹn cho chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tập trung chỉ đạo Bộ Tư lệnh chiến dịch sử dụng toàn bộ các quân đoàn chủ lực cơ động, gồm Quân đoàn 1, 2, 3, 4 và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn), bao gồm 15 sư đoàn, 05 trung đoàn, lữ đoàn bộ binh; 20 lữ đoàn binh chủng kỹ thuật (pháo mặt đất, pháo phòng không, công binh); 03 lữ đoàn, trung đoàn và 06 tiểu đoàn tăng thiết giáp; 08 trung đoàn, lữ đoàn đặc công; 04 trung đoàn thông tin, 01 trung đoàn tên lửa; một số đơn vị không quân, hải quân; 02 sư đoàn ô tô vận tải. Lực lượng vũ trang địa phương trong khu vực chiến dịch có 02 trung đoàn, nhiều tiểu đoàn, đại đội tỉnh, thành đội, huyện đội; 06 trung đoàn đặc công, 60 tổ biệt động, toàn bộ lực lượng chính trị, binh vận… thuộc Quân khu 7 và thành phố Sài Gòn - Gia Định. Tổng cộng lực lượng tham gia chiến đấu là 270.000 người (trong đó có 250.000 bộ đội chủ lực, 20.000 bộ đội địa phương) và 180.000 lực lượng hậu cần chiến dịch và một số trung đoàn, lữ đoàn độc lập khác; binh khí kỹ thuật cũng được Bộ Tư lệnh chiến dịch tập trung khối lượng lớn với hơn 1.000 khẩu pháo các loại, 01 đại đội máy bay A-37; 320 xe tăng, thiết giáp(1).
Không chỉ xây dựng, tập trung lực lượng chủ lực chiến đấu, Đảng, Quân ủy Trung ương đã lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) trong xây dựng, tổ chức lực lượng cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, động viên, xây dựng lực lượng quần chúng có tổ chức làm nòng cốt cho nổi dậy trong thành phố, công việc này được chuẩn bị chu đáo và tạo ra được một lực lượng cũng rất hùng hậu. Đồng thời, CTĐ, CTCT trong công tác địch vận cũng được tiến hành ráo riết, nhờ đó, quân và dân ta đã phá được thế tập trung lực lượng của địch. Ước tính đến trước khi Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, quân địch đã bị tiêu diệt, tiêu hao, thiệt hại tới 35% quân số, 40% hậu cần, 40% binh khí kỹ thuật. Sau thất bại chiến lược ở Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, đến ngày 25/4/1975, mặc dù địch có khoảng 245.000 quân, hơn 500.000 quân phòng vệ dân sự với 06 sư đoàn, 05 lữ đoàn và 407 khẩu pháo, 624 xe thiết giáp, 862 tàu, xuồng, 229 phi cơ chiến đấu nhưng tinh thần chiến đấu của địch đã suy sụp, hiệu lực tác chiến thấp. Như vậy, về so sánh lực lượng quân ta có ưu thế hơn so với quân địch (1,7/1 về quân chủ lực; 3/1 về đơn vị tập trung)(2). Năm cánh quân tiến vào Sài Gòn thực hiện phương án đánh nhanh, dứt điểm nhanh theo phương châm “thần tốc, táo bạo”, nhằm vào những mục tiêu quân sự trọng điểm đã lựa chọn, bảo đảm chắc thắng, làm cho đối phương dù còn rất đông quân và vũ khí, phương tiện chiến tranh rất hiện đại cũng không thể “tử thủ” được nữa, không thể tiến thoái và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng không điều kiện Quân giải phóng.
Như vậy, CTĐ, CTCT về động viên, xây dựng lực lượng của Đại thắng mùa Xuân 1975 đã tạo ra sự áp đảo về lực lượng giữa quân ta so với địch. Đây là bài học đặc biệt của Chiến dịch Hồ Chí Minh và là điều kiện vật chất vô cùng to lớn làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Thứ hai, bài học công tác đảng, công tác chính trị về xây dựng “thế trận lòng dân” của Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Đây cũng là yếu tố đặc biệt quan trọng để Chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi giòn giã và cũng là một kinh nghiệm có giá trị cả về lý luận và thực tiễn CTĐ, CTCT. Bước vào thời kỳ trực tiếp tạo thế cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, căn cứ vào dự kiến kế hoạch và yêu cầu của thế trận chiến dịch, việc triển khai tạo thế trên nhiều mặt rất rộng lớn và phức tạp; thế trận chiến dịch phải bảo đảm sử dụng lực lượng rất lớn, vừa đánh địch bên ngoài, vừa đánh địch bên trong, vừa thọc sâu đánh hiểm, trong ngoài cùng đánh, cũng như phát huy cùng một lúc toàn bộ sức mạnh của mọi lực lượng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Quân ủy Trung ương, “thế trận lòng dân” trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 được xây dựng dựa trên niềm tin mãnh liệt của nhân dân cả nước vào sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng, vào khả năng giành thắng lợi của ta. Thực tiễn cho thấy, có những thời điểm khó khăn, không phải không có những ý kiến nghi ngờ, thậm chí có trường hợp còn dao động, thiếu niềm tin vào sức mạnh và khả năng giành thắng lợi của chúng ta, kể cả một số nước bạn và bạn bè quốc tế. Song với ý chí, niềm tin mãnh liệt của nhân dân vào sức mạnh của chiến tranh nhân dân, của “thế trận lòng dân”, CTĐ, CTCT đã huy động được mọi tầng lớp nhân dân tham gia tiến công và nổi dậy, khai thác và phát huy cao độ mọi tiềm lực của đất nước, với tinh thần “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. “Thế trận lòng dân” của cả hậu phương miền Bắc hướng về miền Nam với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, tất cả vì đồng bào miền Nam, tất cả đã sẵn sàng cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.
“Thế trận lòng dân” đã giăng khắp mọi nơi, trên cả 3 vùng chiến lược (nông thôn - đồng bằng, rừng núi và đô thị), tạo nên thế liên hoàn trên toàn miền Nam, nối liền miền Bắc cùng hai nước anh em Lào và Campuchia tạo thành thế liên hoàn 3 nước Đông Dương, vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới (kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ), đặc biệt là sự ủng hộ, giúp đỡ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, của Liên Xô, Trung Quốc đã hướng về Việt Nam, ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của Việt Nam. Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, phong trào đấu tranh phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đối với Việt Nam lại lan rộng và diễn ra dồn dập đến như vậy, “chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ rất to lớn về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của tất cả các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo thành một mặt trận quốc tế rộng lớn chưa từng có ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược”(3).
Tại khu vực Đông Nam Bộ, rừng núi được xác định là chiến trường tiêu diệt lớn quân địch, Sài Gòn - Gia Định là chiến trường quyết chiến chiến lược cuối cùng đánh bại hoàn toàn quân địch. Ý định đó của chiến lược đã được Bộ Tư lệnh Miền quán triệt và kiên trì vận dụng sáng tạo. Khi trận đánh mở màn, quần chúng nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã nổi dậy như vũ bão ở khắp các khu vực nội, ngoại thành. Đặc biệt, từ ngày 29 đến rạng sáng ngày 30/4 đã có tới 32 khu vực nổi dậy, trong lúc bộ đội chủ lực của ta chưa tiến vào. Nhờ có lực lực lượng đấu tranh chính trị và quần chúng nhân dân bảo vệ nên thành phố Sài Gòn - Gia Định gần như còn nguyên vẹn và hơn 3 triệu dân vẫn an toàn, hân hoan cờ hoa đón chào chiến thắng.
Phát huy bài học công tác đảng, công tác chính trị trong xây dựng lực lượng và “thế trận lòng dân” của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ mới
Đánh giá về tình hình hiện tại, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Trên thế giới, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là nguyện vọng, đồng thời là mục đích của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XXI đến nay, môi trường chính trị, kinh tế, an ninh thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng và các hình thức an ninh phi truyền thống diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực với nhiều đặc điểm mới”(4).
Cục diện thế giới biến đổi theo hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn; các nước vừa hợp tác, thỏa hiệp vừa đấu tranh kiềm chế lẫn nhau ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine, xung đột quân sự ở Trung Đông giữa Israel và các nhóm vũ trang đã tác động rất lớn đến hòa bình, ổn định và an ninh của thế giới. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương; trong đó có Đông Nam Á tiếp tục diễn ra cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc và tiềm ẩn nhiều bất ổn; “khu vực này vẫn là nơi các nước lớn gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, cả truyền thống và phi truyền thống. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ sẽ diễn biến phức tạp hơn, dễ xảy ra va chạm, xung đột, đe dọa sự ổn định, hòa bình và phát triển của khu vực; nguy cơ mất ổn định, chạy đua vũ trang gia tăng”(5).
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và truyền thông để tiến hành chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng chống phá cách mạng Việt Nam”(6). Các thế lực thù địch tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta, chúng tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” bằng các thủ đoạn ngày càng tinh vi, thâm độc và phức tạp hơn; chúng đẩy mạnh các hoạt động nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nước và sẵn sàng tiến hành can thiệp vũ trang khi có điều kiện, thời cơ.
Trước tình hình đó, cần phát huy bài học CTĐ, CTCT trong xây dựng lực lượng và “thế trận lòng dân” của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ mới, với một số nội dung cơ bản sau:
Một là, tích cực, chủ động dự báo đối tượng tác chiến, xác định các hình thái chiến tranh đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội ta trong thời kỳ mới.
Trong xây dựng lực lượng và “thế trận lòng dân”, cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu dự báo đúng đối tượng tác chiến, các hình thái chiến tranh là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cơ sở nền tảng để nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, nhất là nghiên cứu phát triển chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật phù hợp với thực tiễn chiến tranh; xuất phát từ truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc “biết địch, biết ta, trăm trận, trăm thắng”. Cho nên, về đối tượng, Đảng ta xác định: “Bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam đều là đối tượng của Việt Nam”(7).
Đồng thời, Đảng ta cũng xác định hình thái chiến tranh trong thời kỳ mới: “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong đấu tranh quốc phòng, cả phi vũ trang và vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa; không để nước ngoài lợi dụng, thỏa hiệp với nhau hoặc với các thế lực thù địch làm phương hại đến độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc; xử trí linh hoạt, hiệu quả từng tình huống”(8). Đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo xác định các loại hình tác chiến chiến lược: Tác chiến không gian mạng; Tác chiến đánh địch tiến công hỏa lực; Tác chiến bảo vệ biển, đảo; Tác chiến điện tử; Tác chiến phòng thủ chiến lược; Tác chiến tiến công tổng hợp; Tiến công chiến lược và Tác chiến phản công chiến lược.
Đẩy mạnh nghiên cứu mối quan hệ của tác chiến chiến lược, các loại hình tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến thuật, làm cơ sở đề ra biện pháp thiết thực nâng cao hiệu quả tác chiến. Khi nghiên cứu phát triển lý luận và thực tiễn các loại hình tác chiến chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật cần phải gắn với điều kiện, môi trường tác chiến chiến lược, chiến dịch và chiến thuật ở trên bộ, trên không, trên biển, điện từ, không gian mạng và vũ trụ trong điều kiện các thế lực thù địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, tác chiến điện tử và tác chiến không gian mạng.
Hai là, đẩy mạnh hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong xây nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa vô cùng to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện thế giới, khu vực và trong nước có nhiều biến động khó dự báo; các nước lấy lợi ích quốc gia dân tộc đặt lên hàng đầu, khó có thể giúp đỡ chúng ta về vật chất, trang bị và các nhu cầu khác phục vụ cho chiến tranh, chúng ta phải dựa vào sức mình là chính. Vì vậy, tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu xây dựng lực lượng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận toàn dân đánh giặc phải toàn diện trên tất cả các mặt, phải gắn kết chặt chẽ với nền an ninh nhân dân trên phạm vi cả nước; đặc biệt, là ở các vùng miền chiến lược, hướng chiến lược, chiến trường trọng điểm ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, nâng cao độ bền vững cũng như khả năng huy động các nguồn lực về sức người, sức của, vật chất đáp ứng cho nhu cầu quốc phòng, quân sự cả trong thời bình và thời chiến, cho những năm đầu chiến tranh và trong suốt tiến trình chiến tranh.
Ba là, phát huy vai trò của công tác đảng, công tác chính trị đối với lực lượng vũ trang trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa không bị động bất ngờ.
Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng ta xác định: “Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ là nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; tổ chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả; cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý; phù hợp với quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; đồng thời sẵn sàng phát triển lực lượng đáp ứng yêu cầu của chiến tranh”(9).
Nghiên cứu tổng kết lịch sử chiến tranh và nghệ thuật quân sự của Việt Nam và thế giới để bổ sung, phát triển nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận vào xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại hiện nay cũng cần phải nghiên cứu xử lý vấn đề an ninh “phi truyền thống”, cứu nạn - cứu hộ, khắc phục thảm họa thiên tai trong thời bình và thời chiến; đề xuất các giải pháp thích hợp giải quyết hiệu quả vấn đề phòng, chống bạo loạn lật đổ, “cách mạng màu” của các thế lực thù địch, phản động trong nước cấu kết với thế lực thù địch, phản động quốc tế, thực hiện “trong ấm, ngoài êm”, giữ nước “từ sớm, từ xa”, từ khi nước chưa nguy.
Bốn là, phát huy vai trò nòng cốt của các lực lượng vũ trang nhân dân trong xây dựng “thế trận lòng dân”.
Các lực lượng vũ trang nhân dân cần làm tốt công tác nghiên cứu, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố niềm tin của nhân dân với cấp ủy, chính quyền các cấp. Chủ động phối hợp với các tổ chức, lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm xây dựng “thế trận lòng dân” và khu vực phòng thủ vững chắc. Thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động nhân dân và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Năm là, đẩy mạnh tổng kết công tác đảng, công tác chính trị vận dụng vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh” trong kỷ nguyên mới.
Lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh nghiên cứu tổng kết CTĐ, CTCT, lịch sử nghệ thuật chiến tranh và nghệ thuật quân sự có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy nghệ thuật tạo sức mạnh về lực lượng và thế trận lòng dân vào xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh” trong kỷ nguyên mới. Thông qua nghiên cứu tổng kết rút ra các bài học kinh nghiệm về truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc cũng như tinh hoa nghệ thuật quân sự thế giới, vận dụng vào xây dựng, phát triển lực lượng Quân đội và xây dựng thế trận lòng dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
----------------------------------------
Ghi chú:
(1) Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, tập VIII, Nxb CTQG-ST, H.2013, tr.442-443.
(2) https://www.qdnd.vn/tu-lieu-ho-so/van-kien-tu-lieu/nghe-thuat-tao-suc-manh-ve-luc-luong-va-the-tran-trong-chien-dich-ho-chi-minh-726483.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb CTQG-ST, H.2004, tr.486.
(4), (5), (6), (7), (8), (9) Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb CTQG-ST, H.2019, tr.11, tr.13, tr.21, tr.26, tr.26, tr.48.
PGS.TS Dương Quang Hiển; ThS Chu Công Pho - Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự
Bình luận
Tin tức cùng chuyên mục