Hà Nội, Ngày 11/07/2025

Chuyển đổi sang mô hình kinh tế biển xanh để phát triển bền vững kinh tế biển - kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam

Ngày đăng: 13/06/2025   14:12
Mặc định Cỡ chữ

Tóm tắt: Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên và yêu cầu phát triển bền vững trở nên cấp thiết, việc chuyển đổi sang mô hình kinh tế biển xanh được nhiều quốc gia lựa chọn. Trên cơ sở phân tích chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế biển, đặc biệt là yêu cầu chuyển đổi từ khai thác biển truyền thống sang mô hình tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái biển và tổng hợp kinh nghiệm quốc tế của một số quốc gia, tổ chức tiêu biểu, đã xác định các yếu tố cơ bản cấu thành mô hình kinh tế biển xanh hiện đại, như: quy hoạch không gian biển, đổi mới công nghệ, phát triển năng lượng tái tạo, phục hồi hệ sinh thái biển và bảo đảm sinh kế cho cộng đồng ven biển. Bài viết đề xuất các giải pháp chính sách cho Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, bao gồm: hoàn thiện thể chế, thúc đẩy liên kết vùng, hợp tác công - tư, phát triển các ngành kinh tế biển có tiềm năng, quản lý bền vững “vốn biển tự nhiên”, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu. Những nội dung này góp phần cung cấp luận cứ thực tiễn và khoa học cho việc hoạch định chính sách quản lý nhà nước đối với phát triển kinh tế biển trong bối cảnh mới.

Từ khóa: Kinh tế biển xanh; phát triển bền vững; quản lý nhà nước; quy hoạch không gian biển; kinh nghiệm quốc tế.

Abstract: In the context of climate change, resource degradation, and the urgent demand for sustainable development, the transition to a blue economy model has been adopted by many countries. Based on an analysis of the guidelines and policies of the Communist Party and the State of Vietnam on marine economic development - particularly the shift from traditional marine exploitation to a blue economy morden that emphasizes biodiversity conservation and marine ecosystem protection - and by synthesizing international experiences from prominent countries and organizations, the article identifies key components of a modern blue economy such as marine spatial planning, technological innovation, renewable energy development, marine ecosystem restoration, and ensuring livelihoods for coastal communities. The article proposes policy solutions for Vietnam through 2030, including institutional improvement, enhanced regional connectivity, public-private partnerships, development of potential marine economic sectors, sustainable management of natural marine capital, and effective adaptation to climate change. These findings provide practical and scientific grounds for formulating state management policies for marine economic in the new context.

Keywords: Blue economy; sustainable development; state management; marine spatial planning; international experience.

Sunworld Hòn Thơm Phú Quốc.

Đặt vấn đề

Trong thế kỷ XXI, nhiều quốc gia đã thấy những giá trị lớn lao mà biển và đại dương đem lại thể hiện qua các chính sách, chiến lược phát triển chung và các ngành, lĩnh vực kinh tế biển và đại dương. Sự nhận thức đầy đủ và toàn diện ngày càng tăng lên về tiềm năng kinh tế biển, đại dương song song với việc bảo vệ các nguồn tài nguyên tái tạo, phục hồi các hệ sinh thái, đa dạng sinh học,… với tư cách là nguồn “vốn” cho thế hệ hôm nay và mai sau đang thúc đẩy các quốc gia và các tổ chức quốc tế nghiên cứu, khám phá các mô hình phát triển kinh tế biển xanh [12].

Ngày 22/10/2018, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (sau đây viết tắt là Chiến lược). Quan điểm xuyên suốt của Chiến lược là “Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển,… phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.”. Nghị quyết là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, đặc biệt là mục tiêu số 14 - Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững. Có thể nói đây là Chiến lược thể hiện mong muốn phát triển bền vững kinh tế biển bằng các giải pháp “xanh” trong giai đoạn mới.

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW nêu trên. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 203/QĐ-TTg ngày 06/02/2020 về thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ủy ban1 là tổ chức phối hợp liên ngành có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo thống nhất, phối hợp giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Qua gần 05 năm Cục Biển và Hải đảo Việt Nam tham mưu thực hiện Chiến lược, có 02 nhóm vấn đề cần nghiên cứu: (1) Chính sách, kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế biển xanh; (2) Các biện pháp trọng tâm để phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam giai đoạn 2025 - 2030.

Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, để phát triển nhanh, bền vững và trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết2 về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; về phát triển kinh tế tư nhân. Đây là “Bộ tứ trụ cột” để giúp Việt Nam đột phá phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới, trong đó có việc phát triển kinh tế biển; đồng thời, bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương và địa phương, địa giới hành chính đang có sự sắp xếp mới để tạo sự kết nối, mở rộng không gian phát triển hướng biển. Việc đề xuất các đề án, dự án, nhiệm vụ để phát triển kinh tế biển tại địa phương có biển trong giai đoạn tới phải bảo đảm các yếu tố đột phá và phù hợp với sự sắp xếp bộ máy nhà nước.

Phát triển kinh tế biển xanh trong bối cảnh cả nước gấp rút, nỗ lực triển khai thực hiện phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề mới, đòi hỏi sự tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu: (1) Tổng quan chủ trương, chính sách phát triển kinh tế biển của Việt Nam; (2) Sự phát triển kinh tế biển xanh trên thế giới; (3) Kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế biển xanh giai đoạn 2020 đến nay; (4) Kiến nghị một số giải pháp phát triển kinh tế biển xanh cho Việt Nam giai đoạn đến nay 2030.

1. Chủ trương phát triển kinh tế biển ở Việt Nam

Việt Nam là quốc gia biển, có lịch sử, truyền thống, văn hóa và quá trình dựng nước, giữ nước gắn liền với biển. Các vùng biển Việt Nam là một bộ phận quan trọng của Biển Đông, bao gồm vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với diện tích khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền; có khoảng 3000 hòn đảo, trong đó có 02 quần đảo xa bờ là Trường Sa và Hoàng Sa. Đường bờ biển dài trên 3.260 km, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia có biển và quốc đảo trên thế giới. Khoảng một nửa dân số sinh sống và làm việc tại 28/63 tỉnh, thành phố ven biển trong cả nước [1]. Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trải dài theo hướng kinh tuyến, á kinh tuyến và có phần đất liền hẹp chiều ngang nên chịu ảnh hưởng của yếu tố biển, điều này tạo ra lợi thế “mặt tiền” hướng biển, thuận lợi cho giao thương và hội nhập kinh tế quốc tế qua đường biển. Với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, các vùng biển Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã có những nghị quyết, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo hướng tới phát triển bền vững.

1.1. Bảo vệ biển, tiến ra biển, làm giàu từ biển

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến biển, đảo và thể hiện tầm nhìn “tiến ra biển” để làm giàu từ biển và bảo vệ biển từ rất sớm. Tháng 10/1956, khi tham dự Hội nghị cải cách miền biển, Người đã chỉ rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển và bảo vệ đất nước “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không?... Nếu mình không lo bảo vệ miền biển thì đánh cá, làm muối cũng không yên. Cho nên một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển. Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc”. Tại Hội nghị khoa học biển lần thứ 3 (ngày 08/6/1985), Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu chỉ đạo “Phải đặc biệt chú trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh... Việc phân bố lực lượng sản xuất, phân bố lại lao động, phát triển kinh tế biển của các ngành, các địa phương phải theo sự bố trí chiến lược thống nhất, nhằm làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng. Thế bố trí về mặt địa bàn vừa tạo điều kiện khai thác toàn diện và tổng hợp các nguồn tài nguyên, vừa hình thành một thế trận liên hoàn có chiều sâu, thuận lợi cho tác chiến”. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ “Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh, quốc phòng, có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Khai thác tối đa tiềm năng và các lợi thế của vùng biển và ven biển, kết hợp với an ninh, quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế - xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc” [2].

Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với tốc độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước. Các văn kiện của Đảng, Nhà nước có liên quan đã tiếp tục nhấn mạnh sự cần thiết đẩy mạnh khai thác các tiềm năng lợi thế của các vùng biển Việt Nam cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó tiêu biểu nhất là Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là chủ trương lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới lúc đó và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn đổi mới và hội nhập.

1.2. Phát triển kinh tế biển xanh

Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản, quan trọng, từ thay đổi tư duy, nhận thức đến hành động về phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hợp tác quốc tế,… Tuy nhiên, phát triển bền vững biển đã trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay tại Việt Nam cũng như trên phạm vi toàn cầu nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường (BVMT), ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH). Trong giai đoạn phát triển mới hướng đến việc hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc, thì tăng cường kết nối giữa các hệ sinh thái kinh tế và các hệ sinh thái tự nhiên trên nền tảng khoa học công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao và phát huy “vốn biển tự nhiên” sẽ là những đòn bẩy chính cho phát triển bền vững biển [1]. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa XII đã thống nhất ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. 

Chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế biển trong các văn kiện, Chiến lược phát triển KT-XH 10 năm giai đoạn 2021 - 2030 như sau:

- Quan điểm phát triển: Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.

- Phát triển các ngành kinh tế biển đến năm 2030: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.

- Phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển: Quy hoạch không gian biển (QHKGB) xác định các vùng cấm khai thác, các vùng khai thác có điều kiện, khu vực khuyến khích phát triển, khu vực cần bảo vệ đặc biệt cho mục đích quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và bảo tồn hệ sinh thái trong vùng đất ven biển, các đảo, quần đảo, vùng biển, vùng trời thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam nhằm phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hóa, tính đa dạng của hệ sinh thái, bảo đảm tính liên kết vùng, giữa địa phương có biển và không có biển.

- Bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển; chủ động ứng phó với BĐKH, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai: Mở rộng diện tích, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển trên cơ sở QHKGB quốc gia; chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển; bảo đảm tính toàn vẹn và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển.

2. Chính sách phát triển kinh tế biển xanh của một số tổ chức quốc tế, quốc gia tiêu biểu

Kinh tế biển xanh (Blue economy) là thuật ngữ ngày càng phổ biến trong quản trị biển và đại dương hiện nay. Tháng 6 năm 2012, Liên hợp quốc đã tổ chức Hội nghị quốc tế về phát triển bền vững tại Rio de Janerio, Braxin (Rio +20). Trong quá trình thảo luận, mặc dù nhiều đại biểu tiếp tục coi phát triển kinh tế xanh “Green Economy” là giải pháp tổng thể để phát triển bền vững nhưng nhiều quốc gia biển, quốc gia đảo đã đặt ra các câu hỏi liên quan đến trọng tâm áp dụng kinh tế xanh “Green Economy” đối với họ, đồng thời nêu bật vai trò, giá trị của các vùng biển, đại dương đối với sự phát triển nhân loại. Với cách tiếp cận này, thuật ngữ biển xanh “Blue” đã được xem như bộ phận cấu thành quan trọng của “Green Economy” để phát triển bền vững, được thể hiện trong báo cáo “Kinh tế xanh trong thế giới biển xanh” [13] và trong Chương trình nghị sự của Tổng Thư ký Liên hợp quốc giai đoạn 2012 - 2016 [14].

Kể từ thời điểm Rio+20, ngày càng nhiều sự quan tâm đến Kinh tế biển xanh trên khắp thế giới. Sự khác biệt lớn trong cách diễn giải về Kinh tế biển xanh được thể hiện trong nhiều văn liệu khác nhau, do vậy sự đồng thuận đối với một định nghĩa phổ quát khó có thể xảy ra do có những cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này. Khía cạnh được nhiều bên nhất trí coi Kinh tế biển xanh là một khái niệm linh hoạt, được sử dụng tùy vào bối cảnh, điều kiện và bởi các bên khác nhau nhằm đạt được 03 mục tiêu: (1) bền vững môi trường và hệ sinh thái biển, (2) phát triển nhanh các ngành, lĩnh vực kinh tế biển, dựa vào biển hoặc có liên quan, và (3) tạo ra công bằng xã hội hoặc có tính bao trùm [12].

Chính sách phát triển kinh tế biển xanh của một số tổ chức quốc tế, quốc gia tiêu biểu như sau: 

Ủy ban cấp cao về phát triển bền vững kinh tế đại dương3 (The High Level Panel for a Sustainable Ocean Economy) [7] cho rằng phải thiết lập mối quan hệ mới với đại dương theo mô hình “Trip Win” cho con người, tự nhiên và kinh tế, cụ thể là: (i) Bảo vệ đại dương, (ii) Sản xuất bền vững và (iii) Đảm bảo thịnh vượng, công bằng. Ủy ban nêu ra 05 trụ cột để phát triển bền vững kinh tế đại dương: (1) Quyết định dựa vào dữ liệu; (2) Xây dựng một quy hoạch đại dương tổng thể gắn kết nhiều mục tiêu; (3) Giảm rủi ro tài chính và đổi mới để huy động vốn đầu tư; (4) Ngăn chặn ô nhiễm trên đất liền; (5) Thay đổi cách hạch toán đại dương để có thể phản ánh đúng giá trị của đại dương.

Ngân hàng thế giới (Patil và cộng sự, 2016) [12] đã đề xuất một Khung chính sách kinh tế biển xanh vừa bảo đảm sức khỏe biển và tăng trưởng kinh tế theo 03 tiêu chí: Xanh - Sạch - Phục hồi (Green - Clean - Resilent) với các đặc điểm nổi bật như sau:

- Đối với các ngành, lĩnh vực đánh bắt thủy sản, nuôi biển và công nghệ sinh học biển, thì cần đặt mục tiêu quản lý bền vững các tài nguyên tái tạo, quản lý nghề cá dựa vào hệ sinh thái. 

- Đối với các ngành, lĩnh vực và hoạt động kinh tế biển khác (khoáng sản biển, dầu và khí, năng lượng tái tạo, vận tải biển, cơ sở hạ tầng và dịch vụ cảng biển, du lịch, xây dựng ven biển, cô lập cacbon xanh, bảo vệ bờ biển qua bảo vệ và phục hồi môi trường sống, xử lý chất thải từ đất liền).

- Tăng cường khả năng chống chịu ven biển bằng cách tăng cường khả năng đối phó với các bất ổn từ thiên tai, thời tiết cho các lực lượng ven biển và xây dựng kế hoạch thích ứng với BĐKH (như Chiến lược quốc gia thích ứng với BĐKH).

Đối với Trung Quốc, phát triển kinh tế biển đã được thể hiện trong các Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 (2006-2010), Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 (2011-2015) và Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020). Trung Quốc nhấn mạnh sự cần thiết quản lý tổng hợp tài nguyên biển, ven biển và quy hoạch phân vùng chức năng biển quốc gia. Kinh tế biển xanh của Trung Quốc là công cụ, phương tiện quan trọng để đạt được sự hiện đại hóa trong 03 lĩnh vực: kinh tế, địa chính trị và sinh thái (Fabinyi và cộng sự, 2021) [5].

Hiện đại hóa kinh tế biển thể hiện ở việc nâng cấp các ngành, lĩnh vực biển truyền thống (như nghề cá), tăng trưởng cao và phân vùng chức năng. Các nỗ lực hiện đại hóa thể hiện ở việc nâng cấp, đổi mới các công nghệ, thiết bị. Ngoài ra cũng tập trung thúc đẩy phát triển các lĩnh vực tăng trưởng cao (như du lịch ven biển, nuôi biển).

Hiện đại hóa chính trị được thể hiện ở sáng kiến “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”. Sáng kiến này là cơ hội để các quốc gia hợp tác với Trung Quốc để cùng phát triển hướng đến sự thịnh vượng và an toàn chung . Việc này cũng tạo điều kiện và cho phép Trung Quốc “mở và xác nhận quyền sở hữu” các không gian mới để khai thác và kiểm soát.

Hiện đại hóa sinh thái, Trung Quốc xem đại dương như một nguồn tài nguyên cần được bảo vệ, bảo tồn để tạo ra sự thịnh vượng.

Đối với Ủy ban Châu Âu, tháng 5/2021 (European Commission 2021), đã công bố cuốn tài liệu về cách tiếp cận chuyển đổi sang kinh tế biển xanh của EU vì một tương lai bền vững (On a new approach for a sustainable blue economy in the EU Transforming the EU’s Blue Economy for a Sustainable Future) [4]. Có 03 nhóm mục tiêu và các công việc, hành động cần phải thực hiện, bao gồm: (1) Chuyển đổi chuỗi giá trị kinh tế biển xanh; (2) Tạo lập sự hỗ trợ xuyên suốt cho phát triển bền vững kinh tế biển xanh; (3) Thiết lập các điều kiện để quản trị bền vững kinh tế biển xanh.

Đối với Ấn Độ, tháng 9/2020, Hội đồng tư vấn kinh tế của Thủ tướng Ấn Độ đã dự thảo Khung chính sách kinh tế biển xanh của Ấn Độ (EAC-PM 2020) [3]. Có 07 nhóm vấn đề ưu tiên chính của Ấn Độ để phát triển kinh tế biển xanh: (1) Khung hoạch toán quốc gia cho kinh tế biển xanh và quản trị đại dương; (2) Quy hoạch không gian ven biển và du lịch; (3) Thủy sản biển, nuôi biển và chế biến thủy sản; (4) Sản xuất, các ngành mới nổi, thương mại, công nghệ, dịch vụ và phát triển kỹ năng; (5) Logistics, cơ sở hạ tầng và vận tải biển (bao gồm cả trung chuyển); (6) Khai thác đáy biển ven bờ và biển sâu, và năng lượng ngoài khơi; (7) An ninh, không gian chiến lược và gắn kết quốc tế.

Đối với Nhật Bản, Chính sách biển của Nhật Bản được cụ thể hóa tại Luật cơ bản về chính sách đại dương (Basic Act on Ocean Policy) được ban hành năm 2007 và Kế hoạch cơ bản về chính sách đại dương (Basic Plan on Ocean Policy) được Nội các Nhật Bản thông qua 5 năm/lần. Ngày 15/8/2018, bản Kế hoạch cơ bản lần thứ ba (giai đoạn 2018 - 2023) được Nội các Nhật Bản thông qua trong bối cảnh tình hình an ninh hàng hải ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, cần phải bảo vệ lợi ích hàng hải và duy trì sự ổn định cho phát triển [1], gồm các biện pháp chính sau:

- Bảo đảm an ninh biển toàn diện, trong đó lấy trọng tâm là liên kết và hợp tác với các nước khác để thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở (Free and Open Indo-Pacific Strategy).

- Thúc đẩy các ngành, lĩnh vực biển như: khai thác các tài nguyên băng cháy, quặng sulfua đa kim, đất hiếm; phân vùng khu vực sử dụng biển cho điện gió; tăng cường cạnh tranh quốc tế thông qua gia tăng năng suất và giá trị gia tăng từ các dịch vụ biển; tăng cường chức năng điểm trung chuyển hàng hải quốc tế; phát triển đánh bắt cá thương mại,…

- Duy trì và bảo tồn môi trường biển, trong đó sử dung các khuôn khổ quốc tế như: mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) để thực hiện việc bảo vệ môi trường biển; thiết lập các khu bảo tồn biển thích hợp, giảm ô nhiễm biển, bảo tồn các rạn san hô…; thực hiện các sáng kiến toàn diện nhằm hướng đến một vùng biển sạch và phong phú, thúc đẩy các cuộc điều tra và nghiên cứu.

- Nâng cao kiến thức khoa học, tập trung thúc đẩy nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ biển; duy trì và tăng cường khảo sát đại dương, quan sát, giám sát từ trên cao. Hợp tác quốc tế theo hướng thượng tôn pháp luật và dựa trên nghiên cứu khoa học để hiện thực hóa lợi ích quốc gia.

Nhìn chung, chiến lược, chính sách biển, đại dương của các tổ chức quốc tế và nhiều nước có biển hiện nay đều đề cao giá trị của biển và đại dương, khai thác lợi thế, tiềm năng của biển phục vụ phát triển, hướng tới Mục tiêu phát triển bền vững số 14 của Liên hợp quốc. Hầu hết các nước đều đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế biển bền vững, bảo đảm các vùng biển, đại dương khỏe mạnh, ưu tiên cho việc mở cửa hướng ra biển, hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn như du lịch biển, hàng hải,… phát triển một số ngành kinh tế mới trên cơ sở tận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) như năng lượng gió, công nghệ sinh học biển... 

Nền tảng cho kinh tế biển là các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ thống sinh thái hoạt động như vốn tự nhiên của kinh tế biển (vốn biển tự nhiên). Vốn biển tự nhiên bao gồm: (i) Tài nguyên sống (trữ lượng tái tạo) được thu hoạch để sử dụng, chẳng hạn như thủy sản; (ii) Tài nguyên không tái tạo (không thể tái sinh) được khai thác để sử dụng, như khoáng sản biển; và (ii) Các hệ sinh thái cùng quá trình của hệ sinh thái bao gồm sự tương tác giữa môi trường sống và không sống như một đơn vị chức năng (hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn,...). 

Tổng hợp nhận định của một số tổ chức quốc tế, chuyên gia đối với kinh tế đại dương toàn cầu khi thực hiện các phương thức phát triển kinh tế biển xanh, thì đến 2030 (so với trước năm 2015), khách du lịch, dầu khí và nuôi trồng hải sản sẽ tăng gấp 2 lần, vận tải đường biển (bao gồm cả logistic) tăng gấp 04 lần, điện gió ngoài khơi sẽ tăng gấp 40 lần. Ngành khai thác thủy hải sản gần như đạt đến trạng thái bão hòa. Ngoài ra các hoạt động bảo tồn, bảo vệ rừng ngập mặn, cải tạo cơ sở hạ tầng ven biển sẽ góp phần tạo rao nhiều việc làm và thúc đẩy tăng trưởng [10], [11].

 

3. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế biển từ năm 2020 đến nay

Trong giai đoạn 2019 - 2022, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp đã tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và chuỗi cung ứng trên toàn cầu. Ước tính rằng hoạt động vận chuyển hàng hải đã giảm tới 30% ở một số khu vực và hoạt động đánh bắt cá đã giảm tới 80% ở Trung Quốc và Tây Phi. Tác động đến du lịch trên toàn cầu có thể dẫn đến lượng khách du lịch giảm 20-30% và theo Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế, số chuyến bay trên toàn thế giới giảm 80%. Hội đồng Du lịch và lữ hành thế giới tính toán rằng có tới 75 triệu việc làm trong lĩnh vực du lịch và lữ hành hiện đang gặp rủi ro và thiệt hại hơn 2 nghìn tỷ đô la Mỹ (Mc Kinsey, 2020) [8].

Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp phòng dịch theo các khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới, thì biện pháp nổi bật nhất để phục hồi kinh biển xanh ở các quốc gia là cung cấp các khoản tiền hỗ trợ, biện pháp tài chính đến người dân và doanh nghiệp. Nhiều quốc gia đã tung ra các gói tài chính ứng phó khẩn cẩn với tổng số lên tới 10 nghìn tỷ đô la Mỹ trên khắp toàn cầu; hầu hết ưu tiên cứu mạng sống và bảo vệ sinh kế [8]. Đối với kinh tế biển, các cộng đồng ven biển, những người trong các ngành, nghề kinh tế biển, doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa đã ít nhiều được hỗ trợ nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng hoạt động và cung cấp các mặt hàng thiết yếu. Một số lượng tiền nhất định thông qua các biện pháp tài khóa đã được dành cho phát triển kinh tế biển và chuyển đổi sang kinh tế biển xanh [9].

Quốc gia

Biện pháp tài khóa kinh tế biển xanh

Mỹ

Theo Đạo luật Viện trợ, Cứu trợ và An ninh kinh tế đối với Coronavirus, Chính phủ Mỹ đã tiến hành phân bổ 300 triệu USD kinh phí hỗ trợ nghề cá cho các bang, bộ lạc và vùng lãnh thổ có những người tham gia đánh bắt cá ven biển và biển bị ảnh hưởng tiêu cực bởi COVID-19 (NOAA, 2020).

Canada

Khoản hỗ trợ trị giá 62,5 triệu USD sẽ được cung cấp cho lĩnh vực chế biến cá và hải sản thông qua Quỹ Bình ổn thủy sản Canada và 75 triệu USD được dành cho việc giảm phát thải dầu khí ngoài khơi.

Nguồn vốn 469,4 triệu đô la USD sẽ được sử dụng để thiết lập Quyền lợi người thu hoạch cá mới. Chương trình được thiết kế để hỗ trợ lương mang tính thời vụ của lĩnh vực đánh bắt cá. Chương trình nhận hồ sơ từ ngày 24/8 đến ngày 21/9 năm 2020 (theo Cơ quan Thủy sản và Đại dương Canada 2020).

Anh

Chính phủ đã giới thiệu Chương trình hỗ trợ chống gián đoạn thủy sản trị giá 23 triệu bảng. Ngoài ra, 100 triệu bảng được dành cho các khu vực nghề cá để tối đa hóa các cơ hội phát sinh từ việc Anh thực hiện Chính sách nghề cá chung của EU với tư cách là một quốc gia ven biển độc lập.

Ủy ban Châu Âu

Đối với các mục tiêu về khí hậu, Thỏa thuận Xanh dành khoảng 225 tỷ Euro cho quỹ phục hồi và 322 tỷ Euro trong ngân sách 2021 - 2027. Các mục tiêu trong Thỏa thuận Xanh về hệ thống thực phẩm bao gồm giảm việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu gây ô nhiễm môi trường biển.

Ủy ban Châu Âu đã đưa lượng khí thải CO2 của lĩnh vực hàng hải vào Hệ thống Thương mại Khí thải của EU (ETS) với mục tiêu giảm 40% CO2 vào năm 2030. Ủy ban Môi trường của Ủy ban Châu Âu kêu gọi “Quỹ Đại dương” trong giai đoạn 2023 - 2030 hỗ trợ đối với ngành hàng hải để các con tàu sử dụng năng lượng hiệu quả hơn và hỗ trợ cơ sở hạ tầng xanh.

Đức

Sáng kiến Khí hậu Quốc tế của Đức sẽ chi 68 triệu Euro để hỗ trợ 29 dự án (ở 25 quốc gia) ứng phó với COVID tập trung vào xây dựng khả năng chống chịu về kinh tế, xã hội và sinh thái trong tương lai và tìm cách ngăn chặn một đại dịch mới. Sáng kiến này nhằm mục đích đầu tư vào sự phục hồi bền vững của nền kinh tế (tăng cường khả năng chống chịu với khí hậu của ngành đánh cá) để góp phần giảm thiểu BĐKH và bảo tồn đa dạng sinh học.

Na Uy

Chính phủ dự kiến dành khoảng 3,6 tỷ NOK từ ngân sách để hỗ trợ các dự án công nghệ xanh mang lại lợi ích cho việc phát triển điện gió ngoài khơi và vận tải biển ít phát thải. Ngoài ra một “gói chuyển đổi kinh tế biển xanh” (384,5 triệu đô la Mỹ) sẽ được sử dụng để hỗ trợ một loạt các sáng kiến như xây dựng cơ sở hạ tầng gió ngoài khơi khi Na Uy mong muốn góp phần đạt được mục tiêu của Thỏa thuận Paris về hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2 độ C vào năm 2050.

Ý

Lập Quỹ viện trợ trị giá 100 triệu Euro để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Quỹ sẽ viện trợ để duy trì hoạt động của các lĩnh vực này thông qua bảo lãnh của Nhà nước đối với các khoản vay đầu tư và vốn lưu động, cũng như các khoản tài trợ trực tiếp để cung cấp hỗ trợ trong thời gian tạm thời ngừng các hoạt động đánh bắt.

Phần Lan

Ngân sách bổ sung trị giá 5,5 tỷ Euro bao gồm một gói các biện pháp hỗ trợ phục hồi và phục hồi nền kinh tế với trọng tâm là bền vững, bao gồm: 13,1 triệu Euro để phục hồi các địa điểm tự nhiên do nhà nước quản lý và phát triển du lịch thiên nhiên. 53 triệu Euro cho các dự án liên quan đến mảng xanh, dịch vụ nước và bảo tồn rừng. Kinh phí cũng được đề xuất để phục hồi các khu vui chơi giải trí tại địa phương. 20,75 triệu Euro hỗ trợ đổi mới đóng tàu. 05 triệu Euro cho thiết kế tàu trong dự án thay thế ba tàu tuần tra xa bờ bằng các tàu có khả năng ứng phó với sự cố tràn dầu và hóa chất. Quỹ khí hậu quốc gia đã được thỏa thuận trước đó sẽ được vốn hóa 300 triệu Euro. Quỹ sẽ tập trung vào việc chống lại BĐKH, thúc đẩy số hóa và các hoạt động các-bon thấp trong sản xuất.

Ấn Độ

Chính phủ sẽ huy động đầu tư khoảng 2,7 tỷ USD trong 5 năm để mang lại cuộc cách mạng kinh tế biển xanh thông qua phát triển bền vững và có trách nhiệm của ngành thủy sản.

Úc

Ở cấp chính quyền địa phương, chính quyền bang Victoria đã hỗ trợ 129 triệu đô la Úc để hỗ trợ, nâng cấp các cơ sở hạ tầng năng lượng mặt trời, giải quyết nguy cơ xói mòn và lũ lụt ở các khu vực ven biển; chính quyền bang Queensland đã cam kết cung cấp 17 triệu đô la Úc để tạo ra một cơ sở đào tạo năng lượng tái tạo cũng như hỗ trợ 8,93 triệu đô la Úc cho các công viên quốc gia (bao gồm các công viên ven biển và biển quan trọng) để nâng cấp và cải tiến cơ sở hạ tầng cho du khách nhằm kích thích hoạt động du lịch dựa vào thiên nhiên.

Thái Lan

Chính phủ cung cấp các gói hỗ trợ dành cho doanh nghiệp du lịch từ Ngân hàng Krungthai, Ngân hàng Tiết kiệm Chính phủ. Một số ngân hàng có chính sách tạm dừng thu tiền gốc và lãi các khoản vay trong vòng 6 tháng. Ủy ban Trợ giúp Du lịch được thành lập để tham mưu giải quyết các vấn đề liên quan đến các thủ tục nhập cảnh và các chuyến bay thuê chuyến (charter flight) đến các địa điểm du lịch.

 

Ủy ban cấp cao về kinh tế đại dương bền vững [7] cho rằng để có thể phục hồi bền vững và chịu được các cú sốc tương tự trong tương lai thì ngay bây giờ cần tập trung đầu tư vào 05 lĩnh vực ưu tiên: (1) Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thoát nước và nước thải cho các cộng đồng ven biển; (2) Đầu tư phục hồi và bảo vệ các hệ sinh thái biển và ven biển; (3) Đầu tư cho cộng đồng phát triển nuôi trồng thủy sản; (4) Hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo bền vững ở biển; (5) Hỗ trợ phát triển vận tải biển không phát thải.

4. Kiến nghị một số giải pháp phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam giai đoạn đến năm 2030

Tình hình quốc tế và khu vực được dự báo sẽ tiếp tục có nhiều chuyển biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặc biệt xung đột vũ trang, chiến tranh thương mại… Bên cạnh những chuyển biến tích cực về kinh tế, xã hội, vị thế và vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, nước ta tiếp tục phải đối mặt với những thách thức về vấn đề Biển Đông, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, nhiễm mặn Đồng bằng sông Cửu Long, ô nhiễm môi trường trên biển… Đây là những vấn đề được xã hội thường xuyên quan tâm; ngoài ra, hiện nay cả hệ thống chính trị đang tổ chức lại bộ máy từ Trung ương đến địa phương theo hướng chính quyền địa phương 2 cấp nên sẽ có nhiều thay đổi về công tác quản lý và chính sách pháp luật cho phát triển kinh tế biển.

Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và bối cảnh nêu trên, theo tinh thần các nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chỉ thị số 31/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các ý kiến góp ý của chuyên gia, nhà khoa học đối với phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam, kiến nghị một số giải pháp phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam đến năm 2030 như sau:

4.1. Về quan điểm, phương hướng thực hiện

Thứ nhất, phát triển bền vững kinh tế biển theo mô hình kinh tế biển xanh; bảo đảm hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; phát huy tiềm năng, lợi thế của các nguồn vốn biển tự nhiên, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước; thúc đẩy hợp tác công tư trong phát triển kết cấu hạ tầng.

Thứ hai, Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 giữ vai trò chính trong việc giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo thống nhất, phối hợp giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam; tập trung vào 04 khâu đột phá thuộc “Bộ tứ trụ cột” theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị.

Thứ ba, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cần tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Cần đầu tư nghiên cứu lựa chọn, xác định các đề án, dự án ưu tiên để tập trung đầu tư, tạo động lực thực sự cho phát triển bền vững kinh tế biển. 

Thứ tư, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển sớm thành lập, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển tại địa phương; tập trung nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ mạng lưới giao thông kết nối các vùng có biển và không có biển, nâng cao hạ tầng xã hội nhằm tạo nền tảng phát triển kinh tế biển.

4.2. Về các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong giai đoạn đến năm 2030

Giai đoạn 2025 - 2030 là giai đoạn tạo “bản lề” để thực hiện tốt các quan điểm, mục tiêu, chủ trương lớn và các giải pháp đề ra Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; ưu tiên vào các lĩnh vực kinh tế biển có thế mạnh, mới và tránh làm gián đoạn chuỗi cung ứng. Nhà nước có chính sách linh hoạt về nhập cảnh cho khách quốc tế để thúc đẩy phát triển du lịch, thúc đẩy thương mại quốc tế; tiếp tục kéo dài các chính sách hỗ trợ có mục tiêu đối với doanh nghiệp (như lãi suất vay 3-5%/năm, hỗ trợ tiền điện, nước…). Mục tiêu, phương hướng trong giai đoạn đến năm 2030 là:

Một là, quản trị biển, quản lý vùng bờ: Hình thành cơ bản hành lang pháp lý về đổi mới, phát triển mô hình kinh tế biển xanh và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong phát triển kinh tế biển. Tổ chức thực hiện hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm Quy hoạch không gian biển quốc gia và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.

Hai là, phát triển các ngành kinh tế biển, ven biển và các vùng biển: Phấn đấu đạt mục tiêu Nghị quyết số 36-NQ/TW đề ra, cụ thể các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của các tỉnh, thành phố ven biển ước đạt từ 65 đến 70% GDP của cả nước. Tập trung thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 03/4/2023 của Chính phủ về Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ven biển, phòng, chống sạt lở bờ biển, tăng sức chống chịu với các tác động của BĐKH và tạo cơ sở, động lực phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, hệ sinh thái biển.

Để phát triển khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản, Nhà nước cần hỗ trợ có mục tiêu nhằm đảm bảo không làm gián đoạn chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế. Thực hiện tốt các khuyến nghị của Ủy ban Châu âu (EC) về khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) để được EC gỡ thẻ vàng.

Về phát triển điện gió ven bờ và ngoài khơi, ngành Công Thương cần phối hợp với các bộ, ngành có liên quan để có chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp, chuyên gia quốc tế, công nhân tay nghề cao vào Việt Nam làm việc. 

Ba là, quản lý hiệu quả các nguồn vốn biển tự nhiên và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu: Điều tra đánh giá được tiềm năng một số nguồn vốn biển tự nhiên, đặc biệt là năng lượng tái tạo ở biển; Thiết lập cơ sở chính sách cho khai thác, bảo vệ các tài nguyên biển; Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; Giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong khu vực về xây dựng và thực hiện các chính sách giảm thiểu chất thải nhựa đại dương; Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, quan trắc môi trường biển, BĐKH đạt trình độ ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực.

Bốn là, nâng cao đời sống cho nhân dân: Phấn đấu đưa Chỉ số phát triển con người (HDI) và thu nhập bình quân đầu người của các địa phương ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục...
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.    Bộ Tài nguyên và Môi trường (2018). Dự án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 22/9/2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X)  về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.

2.    Bình Sơn (2020). Bài 1: Chiến lược biển – tầm nhìn của Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.https://baocantho.com.vn/bai-1-chien-luoc-bien-tam-nhin-cua-bac-ho-va-dai-tuong-vo-nguyen-giap-a123781.html

3.    EAC-PM. 2020. India's a draft Blue Economy Policy Framework. New Delhi. https://incois.gov.in/documents/Blue_Economy_policy.pdf.

4.    European Commission. 2021. On a New Approach for a Sustainable Blue Economy in the EU Transforming the EU’s Blue Economy for a Sustainable Future. Brussel.

5.    Fabinyi, Michael, Annie Wu, Sallie Lau, Tabitha Mallory, Kate Barclay, Kathleen Walsh, and Wolfram Dressler. 2021. China’s Blue Economy: A State Project of Modernisation. Journal of Environment and Development 30 (2): 127–48. https://doi.org/10.1177/1070496521995872.

6.    Hinh T.Dinh, 2021. COVID-19 & Developing Countries – the Road to Recovery. Policy Center for the New South, Hay Riad, Rabat, Maroc. www.policycenter.ma

7.    High Level Panel for A Sustainable Ocean Eonomy, 2021. Transformations for a Sustainable Ocean Economy: A Vision for Protection, Production and Prosperity. https://www.oceanpanel.org/ocean-action/files/transformations-sustainable-ocean-economy-eng.pdf

8.    McKinsey. 2020. A Low-Carbon Economic Stimulus after COVID-19. 2020. https://www.mckinsey.com/business-functions/sustainability/our-insights/how-a-post-pandemic-stimulus-can-both-create-jobs-and-help-the-climate.

9.    Northrop, Eliza, Manaswita Konar, Nicola Frost, and Elizabeth Hollaway, 2020. A Sustainable and Equitable Blue Recovery to the COVID-19 Crisis. Oceanpanel.Org. https://oceanpanel.org/sites/default/files/2020-09/20_HLP_Report_COVID_Blue_Recovery.pdf.

10.    OECD. 2012. Strategic Transport Infrastructure Needs to 2030. https://www.oecd-ilibrary.org/content/publication/9789264114425-en?crawler=true&mimetype=application/pdf.

11.    OECD. 2013. Marine Biotechnology: Enabling Solutions for Ocean Productivity and Sustainability. https://www.oecd.org/health/biotech/marine-biotechnology-ocean-productivity-sustainability.htm.

12.    Patil, Pawan G., John Virdin, Sylvia Michele Diez, Julian Roberts, and Asha Singh. 2016. Toward a Blue Economy: A Promise for Sustainable Growth in the Caribbean. https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/25061.

13.    Tạ Đình Thi, Nguyễn Ngọc Sơn (2022). Việt Nam hướng tới phát triển kinh tế biển xanh. Nhà xuất bản tài nguyên môi trường và bản đồ Việt Nam.

14.    UNEP, FAO, IMO, UNDP, IUCN, World Fish Center, and GRID-Arendal. 2012. Green Economy in a Blue World: Synthesis Report. Vol. 5. https://digitalarchive.worldfishcenter.org/handle/20.500.12348/994.

15.    UN (2012). The Secretary – General’s five-year action agenda. 25 January 2012. https://www.un.org/sg/sites/www.un.org.sg/files/atoms/files/sg_agenda_2012.pdf

16.    Viện Năng lượng (2021). Đề án Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mã công trình E-542, Tập 1 - Thuyết minh chung.  https://nangluongvietnam.vn/stores/customer_file/mastercms/022021/22/thuyet-minh-qhd8-22-2.pdf.

-------------------------------------

Ghi chú:

 1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) là Cơ quan thường trực của Ủy ban chỉ đạo quốc gia (Cục Biển và Hải đảo Việt Nam làm nhiệm vụ Văn phòng Cơ quan thường trực), có trách nhiệm tham mưu giúp Ủy ban một số vấn đề quan trọng sau: (i) Nghiên cứu, đề xuất xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển bền vững kinh tế biển; (ii) Kiến nghị, đề xuất phương án giải quyết các vấn đề, vướng mắc giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển; (iii) Tổ chức thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW; (iv) Huy động các nguồn lực trong nước và quốc tế để hỗ trợ việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển.

2. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.

3. Ủy ban cấp cao về phát triển bền vững kinh tế dại dương được thành lập tháng 9/2018 là một sáng kiến độc đáo của 14 nguyên thủ các quốc gia biển và quốc đảo (Bồ Đào Nha, Canada, Chi-le, Fi-ji, Ga-na, In-đô-nê-xi-a, Ja-mai-ca, Ke-nya, Na-Uy, Nhật Bản, Na-mi-bi-a, Me-xi-co, Pa-lau, Úc) để cùng nhau hướng tới một nền kinh tế đại dương bền vững. Ước tính 14 quốc gia biển này chiếm gần 40% đường bờ biển, 30% vùng đặc quyền kinh tế, 20% đội tàu vận tải biển, 20% sản lượng nghề cá trên toàn cầu.  https://oceanpanel.org/about#panel 

4. Tháng 11/2018, khái niệm “kinh tế biển xanh” lần đầu tiên được Trung Quốc và ASEAN ghi nhận và đề cập trong Tầm nhìn về quan hệ đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc 2030. Tháng 7/2019, Trung Quốc đã tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế biển với ASEAN và đề nghị cùng ra Tuyên bố chung về chủ đề này tại Hội nghị cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần thứ 22 tại Thái Lan vào tháng 11/2019; tuy nhiên, do nội hàm chưa rõ ràng và phạm vi bao quát rộng nên các nước ASEAN chưa nhất trí với đề xuất của Trung Quốc. Tháng 9/2019, Trung Quốc đã chủ động xây dựng Dự thảo Tuyên bố chung về xây dựng quan hệ đối tác ASEAN - Trung Quốc về kinh tế biển xanh (Joint Statement on Building ASEAN - China Partnership on Blue Economy), tập trung vào các nội dung: (i) Quy hoạch không gian biển; (ii) Bảo vệ sinh thái biển; (iii) Công nghiệp trên biển; (iv) Đổi mới, sáng tạo công nghệ biển; (v) Du lịch biển; và (vi) Hợp tác giữa các viện nghiên cứu chính sách và khoa học.

ThS Nguyễn Ngọc Sơn - Trưởng phòng Phòng quản lý điều tra cơ bản biển và hải đảo, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Thăng tiến trong công vụ dựa trên năng lực - kinh nghiệm của New Zealand và gợi ý cho cải cách chế độ công vụ ở Việt Nam

Ngày đăng 06/06/2025
Tóm tắt: Trên cơ sở làm rõ các nguyên tắc tổ chức hệ thống công vụ của New Zealand, bài viết đi sâu phân tích mô hình, cơ chế thăng tiến với các công cụ hỗ trợ hiệu quả. Từ đó, rút ra những gợi ý có giá trị tham khảo đối với Việt Nam trong quá trình cải cách chế độ công vụ theo hướng hiện đại, minh bạch và dựa trên năng lực, chuyển đổi sang mô hình “đánh giá năng lực và bổ nhiệm vào vị trí công việc cụ thể”, với việc áp dụng các công cụ đánh giá năng lực thực tế và khách quan, ứng dụng công nghệ để đảm bảo tính công bằng, minh bạch và khả năng tiếp cận cho công chức ở mọi vùng miền.

Bài học về tái bố trí công chức sau sáp nhập từ một số quốc gia

Ngày đăng 10/05/2025
Bài viết trình bày những bài học rút ra từ kinh nghiệm cải cách hành chính của Đan Mạch, Hungary và Vương quốc Anh, đặc biệt là trong việc tái bố trí công chức và cải cách hệ thống hành chính sau sáp nhập. Từ đó, đưa ra những khuyến nghị cho Việt Nam về cách tiếp cận, tổ chức lại bộ máy hành chính, bảo đảm chất lượng dịch vụ công và nâng cao năng lực công chức.

Kinh nghiệm quốc tế về sáp nhập đơn vị hành chính, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp và giá trị tham khảo đối với Việt Nam

Ngày đăng 28/04/2025
Tóm tắt: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua nội dung đồng ý chủ trương tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp: cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương), cấp xã (xã, phường, đặc khu trực thuộc tỉnh, thành phố). Chủ trương này hoàn toàn phù hợp xu hướng chung của các nước trên thế giới. Việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về sáp nhập đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp có giá trị tham khảo lớn đối với Việt Nam trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp; đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong thời gian tới. Từ khóa: Sắp xếp đơn vị hành chính; chính quyền địa phương 02 cấp; kinh nghiệm quốc tế.

Pháp luật về kiện phái sinh tại Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Ngày đăng 31/03/2025
Tóm tắt: Bài viết phân tích các quy định pháp lý về hình thức kiện phái sinh tại Nhật Bản, đồng thời đánh giá những ưu điểm và hạn chế của cơ chế này. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế kiện phái sinh, phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam. Từ khóa: kiện phái sinh; giải quyết tranh chấp; cổ đông; kinh doanh thương mại; tố tụng dân sự.

Thu hút, tuyển dụng công chức tại các quốc gia OECD và giá trị tham khảo cho Việt Nam

Ngày đăng 14/03/2025
Một trong các xu hướng cải cách công vụ trên thế giới là thu hút và tuyển dụng những người có tài năng gia nhập nền hành chính. Nỗ lực này bao gồm việc nâng cao sức hấp dẫn của tổ chức công và tuyển chọn công chức dựa trên nguyên tắc thực tài theo các quy trình công khai, minh bạch, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu của tổ chức và các ứng viên quan trọng. Các nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) luôn chú trọng việc xác định nhóm các ứng viên có năng lực thiết yếu để thu hút và tuyển dụng. Bài viết giới thiệu một số cách thức tạo dựng thương hiệu tuyển dụng và lựa chọn ứng viên cho các công việc trong hệ thống công vụ của các nước OECD, từ đó rút ra một số giá trị tham khảo cho Việt Nam.