Trong nhiều năm qua, chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tại Việt Nam đã khẳng định vai trò trụ cột trong việc bảo vệ người lao động khi mất việc làm, góp phần ổn định xã hội và giảm thiểu tác động tiêu cực của biến động kinh tế. Tuy nhiên, bài toán công bằng giữa lao động chính thức và phi chính thức trong tiếp cận an sinh xã hội đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế số và thị trường lao động linh hoạt đang phát triển mạnh mẽ.
![]() |
Người lao động hưởng chính sách BHTN được tư vấn việc làm |
Theo Cục Thống kê, tính đến cuối năm 2024, Việt Nam có khoảng 33,5 triệu lao động làm việc trong khu vực phi chính thức, chiếm 64,6% tổng số lao động có việc làm. Đây là nhóm lao động không có hợp đồng lao động, làm việc tự do, không có bảo hiểm xã hội và đặc biệt là không được tham gia BHTN.
Trong khi đó, theo Luật Việc làm sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 1/1/2026), hệ thống BHTN chỉ áp dụng đối với người lao động có hợp đồng lao động từ 1 tháng trở lên. Điều này tạo ra một khoảng cách bất bình đẳng trong quyền tiếp cận chính sách an sinh giữa 2 nhóm lao động.
Ở khu vực chính thức, người lao động được tham gia BHTN bắt buộc và có thể thụ hưởng nhiều chế độ như trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, tư vấn việc làm, giới thiệu việc làm… Bình quân mỗi năm gần đây có hơn 820.000 người hưởng trợ cấp thất nghiệp; riêng năm 2020, thời điểm đỉnh dịch COVID-19, đã có trên 1 triệu người được chi trả trợ cấp.
Theo Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước và Lao động (Bộ Nội vụ), trong quý I năm 2025, đã có 123.835 lượt người nhận trợ cấp thất nghiệp. Có thể thấy, hệ thống BHTN thực sự đã trở thành điểm tựa cho nhiều người lao động chính thức khi rơi vào tình trạng mất việc.
Ngược lại, lao động phi chính thức không có hợp đồng lao động, không có ràng buộc pháp lý rõ ràng, không được doanh nghiệp đóng bảo hiểm. Khi mất việc hoặc rơi vào khủng hoảng như dịch bệnh, thiên tai, nhóm này không được hưởng trợ cấp BHTN, cũng không có cơ hội tiếp cận các chương trình học nghề miễn phí hay được giới thiệu việc làm qua hệ thống dịch vụ công.
Nguyên nhân của tình trạng này đến từ cả khung pháp lý lẫn thực tiễn thi hành. Trước hết, pháp luật hiện hành chưa cho phép lao động không có hợp đồng được tham gia BHTN, kể cả dưới hình thức tự nguyện. Việc mở rộng đối tượng tham gia còn gặp nhiều vướng mắc trong khâu quản lý, giám sát thu - chi cũng như xác định điều kiện thụ hưởng. Bên cạnh đó, nhiều người lao động trong khu vực phi chính thức còn thiếu kiến thức về an sinh xã hội, chưa nhận thức rõ giá trị của việc tham gia BHTN. Tâm lý thiên về thu nhập trước mắt khiến họ ngần ngại bỏ tiền đóng bảo hiểm, dù chỉ với mức tối thiểu.
Ngoài ra, nhiều người trong nhóm này không có tài khoản ngân hàng, không tiếp cận được các nền tảng kỹ thuật số, gây khó khăn cho việc triển khai hình thức đóng - hưởng trực tuyến. Các cơ quan chức năng cũng gặp trở ngại trong việc thu thập dữ liệu, xác định nhân thân và quản lý dòng tiền nếu mở rộng BHTN ra khu vực phi chính thức.
Trong khi đó, nhiều quốc gia đã có bước đi sớm trong việc giải bài toán này. Từ năm 2021, Hàn Quốc triển khai chính sách BHTN tự nguyện cho người lao động tự doanh như nghệ sĩ, huấn luyện viên thể thao… Mô hình này cho phép người lao động linh hoạt lựa chọn mức đóng và điều kiện hưởng. Đức cũng cho phép lao động tự doanh tham gia BHTN nếu có thu nhập ổn định và đang kinh doanh hợp pháp. Thái Lan đi xa hơn khi thực hiện chính sách trong đó nhà nước hỗ trợ một phần mức đóng BHTN cho người lao động tự do, góp phần mở rộng độ bao phủ.
Từ những kinh nghiệm quốc tế đó, Việt Nam cần cân nhắc một lộ trình cải cách toàn diện hơn cho chính sách BHTN. Trước mắt, có thể ban hành quy định cho phép người lao động không có hợp đồng được tham gia BHTN theo hình thức tự nguyện. Mức đóng cần được tính toán linh hoạt, phù hợp với thu nhập và đặc thù từng nhóm nghề nghiệp, từng khu vực dân cư. Đồng thời, Nhà nước nên xem xét hỗ trợ một phần kinh phí đóng trong giai đoạn đầu, như một hình thức khuyến khích và bảo vệ nhóm lao động yếu thế.
Một hướng đi quan trọng khác là ứng dụng công nghệ số để quản lý lao động phi chính thức. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu lao động quốc gia, tích hợp với dữ liệu ngành thuế, thương mại điện tử, nền tảng số (như ứng dụng giao hàng, nền tảng bán hàng online…) sẽ giúp định danh và theo dõi thu nhập của nhóm này. Từ đó, cơ quan bảo hiểm có thể thiết kế phương án đóng - hưởng linh hoạt, giảm thiểu gian lận và thất thoát.
Cùng với đó, công tác truyền thông, nâng cao nhận thức cũng cần được đẩy mạnh. Người lao động cần hiểu rằng BHTN không chỉ là một “chi phí bắt buộc”, mà là một “tấm lưới an toàn” giúp họ không bị rơi vào bần cùng khi thị trường lao động biến động. Các chiến dịch tuyên truyền cần sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, gần gũi, phù hợp với đặc điểm của từng nhóm lao động.
Theo Bộ Nội vụ, việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN khi Luật Việc làm sửa đổi có hiệu lực từ năm 2026 dự kiến sẽ giúp số người tham gia tăng từ 16 triệu hiện nay lên 18,8 triệu vào năm 2027. Nếu thực hiện hiệu quả, đây sẽ là một bước tiến lớn trong tiến trình xây dựng hệ thống an sinh toàn diện, công bằng và bền vững./.
Hồng Minh
Bình luận
Tin tức cùng chuyên mục