Hà Nội, Ngày 16/11/2025

Những giá trị tham khảo từ cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng dưới triều Vua lê Thánh Tông và Vua Minh Mạng

Ngày đăng: 01/11/2025   16:19
Mặc định Cỡ chữ

Tóm tắt: Trong tiến hành cải cách hành chính (CCHC), vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng đều rất quan tâm đến cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, coi đó là điều kiện không thể thiếu để cải cách của các ông thành công. Xác định tham nhũng là loại tội phạm nghiêm trọng, gây tác hại nhiều mặt cho xã hội nên các ông đã tìm mọi biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi. Trong bài viết này, tác giả trình bày một số biện pháp phòng chống tham nhũng của các ông để chúng ta cùng suy ngẫm và rút ra những giá trị tham khảo cho cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Từ khóa: Cải cách hành chính, Vua Lê Thánh Tông, vua Minh Mạng, phòng chống tham nhũng

Abstract: While carrying out administrative reform (AR), King Le Thanh Tong and King Minh Mang were both very interested in the fight against corruption, considering it an indispensable condition for their reforms to succeed. Determining corruption as a serious crime, causing multifaceted harm to society, they sought every measure to prevent and repel it. In this article, the author presents some of their anti-corruption measures for us to ponder and draw reference values ​​for the current anti-corruption struggle in our country.

Keywords: Administrative reform, King Le Thanh Tong, King Minh Mang, the fight against corruption

Đặt vấn đề

Tuy làm vua ở hai triều đại khác nhau nhưng vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) và vua Minh Mạng (1820 - 1840) có những điểm tương đối tương đồng. Sinh sau vua Lê Thánh Tông tới 4 thế kỷ, nhưng vua Minh Mạng rất ngưỡng mộ vua Lê Thánh Tông và muốn làm một “Lê Thánh Tông mới” của Việt Nam ở thế kỷ XIX. Các ông đều là những người đã thực hiện CCHC toàn diện và mang lại những kết quả nổi bật.

Trong khi tiến hành CCHC, vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng rất quan tâm đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Các ông từng nói với các quan đại thần trong triều rằng: “Làm quan mà tham nhũng thì dân ai oán, đem khí dữ trái khí hoà, mối tệ này phải được loại bỏ”(1).

Xác định tham nhũng là loại tội phạm nghiêm trọng, gây tác hại nhiều mặt cho xã hội nên các ông đã đề ra nhiều biện pháp đấu tranh với tệ nạn này nhằm hạn chế sự tha hóa của đội ngũ quan lại dưới chế độ phong kiến. Các biện pháp phòng chống tham nhũng của các ông rất cụ thể và quyết liệt, bao gồm:

1. Lấy việc tuyển chọn quan lại công khai, minh bạch để phòng chống tham nhũng

Vua Lê Thánh Tông cũng như vua Minh Mạng đều hiểu rằng: “Trăm quan là nguồn gốc của trị, loạn”; nư­ớc thịnh hay suy đều do “vua hiền - tôi sáng” quyết định. Để tuyển chọn được đội ngũ quan lại hiền tài, các ông đã thực hiện tuyển chọn quan lại bằng nhiều hính thức khác nhau, chủ yếu bằng con đ­ường khoa cử.  Các kỳ thi đ­ược các ông tổ chức đều đặn, đối t­ượng dự thi mở rộng đến tất cả các tầng lớp nhân dân. Nội dung thi không chỉ giới hạn ở lĩnh vực văn học, sử học, mà còn gắn kết với những vấn đề quản trị của quốc gia. Khi muốn chọn ng­ười hiền tài để bổ dụng vào các chức quan trong triều, các ông th­ường ra đề thi hỏi về phép trị quốc, an dân, cách giải quyết những vấn đề trong quản lý, điều hành đất n­ước. Chế độ thi cử d­ưới triều các ông đ­ược đảm bảo bằng các quy chế thi, kỷ luật phòng thi và cả chế độ chấm thi rất nghiêm túc. Về chấm thi, Quốc triều hình luật đặt ra quy định phải cử ng­ười chép lại bài thi của thí sinh    tr­ước khi giao cho quan chủ khảo chấm để tránh việc nhận ra nét chữ của thí sinh đã cho ta thấy các ông quan tâm đến chế độ bảo mật trong thi cử nh­ư thế nào.

Ngoài hình thức khoa cử là chủ yếu, các ông còn tuyển chọn quan lại bằng hình thức tiến cử, bảo cử công khai nhằm tuyển chọn được những ng­ười hiền tài trong dân chúng mà vì lý do nào đó không thể tham gia các kỳ thi. Các ông ban hành “Chiếu cầu ng­ười hiền tài” và khuyến khích quan lại trong triều tiến cử, bảo cử ng­ười hiền tài để triều đình tuyển chọn. Ngư­ời đư­ợc tuyển chọn phải trải qua một thời gian làm “thí quan”. Nếu làm tốt họ sẽ đ­ược bổ nhiệm làm chính quan, ng­ược lại nếu làm không tốt họ sẽ bị bãi miễn. Để tránh việc “tiến cử bừa”, các ông quy định nếu quan lại nào tiến cử đúng ng­ười tài giỏi thì đ­ược triều đình khen th­ưởng, ng­ược lại thì bị phạt rất nặng. Quan lại ai cũng có quyền tiến cử những người hiền tài ra làm quan như­ng họ cũng phải chịu trách nhiệm về ng­ười mình tiến cử.

Dư­ới triều các ông, mọi chức quan đều phải “thi” rồi mới “cử”, không có chuyện “cử” rồi mới “thi”. Để có chức quan trong triều đình và các cấp hành chính, các sĩ tử đều phải qua kỳ thi H­ương, thi Hội, thi Đình. Những ai đỗ cử nhân trong kỳ thi H­ương đ­ược bổ nhiệm làm quan tri phủ, tri huyện; đỗ tiến sĩ    đ­ược giữ các chức quan trong triều đình. Người thi đỗ bậc tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) trong kỳ thi Đình đ­ược giữ các chức quan cao cấp.

Bằng con đ­ường khoa cử và tiến cử, bảo cử minh bạch, công bằng, các ông đã lựa chọn đ­ược những quan lại hiền tài, tránh đ­ược căn bệnh “chạy chức chạy quyền”, “mua quan bán chức”. Những quan lại được tuyển chọn minh bạch, bằng đúng tài đức của mình, không phải mất “chi phí đầu tư” để có chức này, chức nọ nên khi có chức họ không phải tìm mọi cách “xoay xở” để “thu hồi vốn” như chúng ta vẫn thường thấy ở nhiều hệ thống hiện nay.

2. Sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu để phòng chống tham nhũng

Vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng luôn đề cao vai trò của pháp luật, chú trọng xây dựng và thực hiện pháp luật, coi đó là công cụ hữu hiệu để phòng chống tham nhũng. Các ông cho rằng: “Trị n­ước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Đặt ra pháp luật trên là để răn dạy quan lại, d­ưới là để dân chúng trăm họ biết mà thực hiện. Mọi rối loạn đều bắt đầu từ sự rối loạn kỷ      c­ương”(2). Chính thấy đ­ược vai trò to lớn của pháp luật mà các ông đã giành nhiều thời gian xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể. Dưới triều vua Lê Thánh Tông có Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng, dưới triều vua Minh Mạng có Quốc triều Hình luật. Ngoài các bộ luật, các ông còn ban hành nhiều sắc chỉ quy định về kiện tụng, về đội ngũ quan lại trông coi pháp luật, về phòng chống tham nhũng.

Các điều luật, chế tài trong các văn bản pháp luật d­ưới triều các ông thư­ờng rất chi tiết, cụ thể. Thời đó, không có khái niệm xây dựng “luật khung” và không có những điều luật chỉ mang tính nguyên tắc chung nh­ư một số văn bản luật ở  n­ước ta hiện nay. Trong Bộ luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thánh Tông có 722 điều, quy định 5 loại hình phạt là: xuy hình, tr­ượng hình, đồ hình, l­ưu hình và tử hình. Riêng nhóm tội tham nhũng, hối lộ đ­ược quy định cụ thể trong 49 loại tội và đư­ợc chi tiết thành 225 hành vi với 42 tội danh. Điều 42, chương “Vi chế” ghi rõ: “Làm trái pháp luật, ăn hối lộ từ 1 đến 9 quan, xử tội biếm hoặc bãi chức; từ 10 đến 19 quan, xử tội đồ, lưu; từ 20 quan trở lên xử tội lưu; từ 50 quan trở lên xử tử . “Các quan địa phương sách nhiễu lương dân, mua bán rẻ, đòi biếu xén thì hạ chức hoặc bãi chức và phải bồi thường gấp đôi trả dân”. Điều 138 quy định: “Xử tội biếm hay bãi chức viên quan nào ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan, từ 20 quan trở lên xử tội chém”. Trong Quốc triều hình luật dưới triều vua Minh Mạng có 79 điều quy định về các tội liên quan đến tham nhũng và có những điều luật rất hà khắc. Điều 31 quy định: quan lại nhận hối lộ phải chịu hình phạt thấp nhất 70 trượng, cao nhất là treo cổ. Điều 111 quy định: “Quan lại dùng chức vụ vô cớ bắt trói người và tra khảo họ nơi tư gia (không kể có thương tích hay không thương tích) thì tăng hơn người thường hai bậc tội. Nếu nạn nhân chết, người ấy bị xử treo cổ”.

Luật được ban hành đầy đủ, chi tiết, cụ thể nên mọi quan lại đều dễ hiểu, dễ áp dụng, kẻ xấu khó có cơ hội để “lách luật”. Căn cứ vào các văn bản luật, các ông kiểm tra, giám sát, khen thưởng và xử phạt quan lại chính xác, công bằng và nghiêm minh.

3. Xây dựng cơ chế và bộ máy kiểm tra, giám sát quan lại để phòng chống tham nhũng

Cơ chế kiểm tra, giám sát quan lại d­ưới triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng có thể chia làm hai nhóm: cơ chế tự kiểm tra, giám sát quan lại của mỗi hệ thống và cơ chế kiểm tra, giám sát quan lại từ bên ngoài hệ thống. Cơ chế kiểm tra, giám sát này đã đáp ứng đ­ược các yêu cầu sau:

Thứ nhất, bộ máy kiểm tra, giám sát có khả năng kiểm tra, giám sát đư­ợc toàn bộ hệ thống quyền lực nhà n­ước. Bộ máy kiểm tra, giám sát ấy không là bộ phận hợp thành bên trong của hệ thống quyền lực đang cần phải kiểm tra, giám sát mà nó đứng bên ngoài để kiểm tra, giám sát.

Thứ hai, bộ máy kiểm tra, giám sát đó có tính độc lập cao, vì vậy việc kiểm tra, giám sát đảm bảo đ­ược yêu cầu khách quan. Các cơ quan kiểm tra, giám sát d­ưới triều các ông có quyền hành rất lớn, cơ chế hoạt động t­ương đối độc lập, không chịu bất cứ một sức ép nào, kể cả trong quá trình điều tra, xét xử và trong quá trình khảo khoá quan lại. Quyền hành rộng rãi và tính độc lập này đã tạo uy quyền thực sự cho các quan ngự sử, giúp họ đánh giá, xét xử quan lại khách quan, đúng với công tội của từng lại, quan.

D­ưới triều vua Lê Thánh Tông, để kiểm tra, giám sát quan lại ông cho đặt Ngự sử đài ở Trung ương, quan giám sát Ngự sử ở các thừa tuyên. Giám sát hành chính ở Lục bộ còn có Lục khoa. Bắt đầu từ thời vua Lê Thánh Tông cơ chế kiểm tra, giám sát đ­ược thực hiện bởi Hiến sát sứ ty: Hiến sát sứ ty điều tra và đàn hặc những việc làm trái phép, xử lý những quan lại tham nhũng trong địa hạt mình quản lý. Thêm vào đó còn có Ty ngự sử ở trong Kinh thành cùng hợp tác với Hiến sát sứ ty trong việc giám sát các quan lại ở địa phương.

Dưới triều vua Minh Mệnh, Ngự sử đài được đổi thành Đô sát viện. Thành lập Đô sát viện, vua Minh Mệnh muốn hướng cơ quan này vào công việc kiểm tra, giám sát bộ máy hành chính trong toàn quốc. Ngoài Đô sát viện còn có hệ thống giám sát của Lục khoa,  quan lại địa phương còn chịu sự giám sát của 16 quan giám sát Ngự sử.

Với bộ máy kiểm tra, giám sát chặt chẽ như vậy, không một cơ quan nhà nước nào, không một quan lại nào lại không bị kiểm tra, giám sát từ các phía, ngay từ bên trong tổ chức và từ bên ngoài tổ chức.

Ngoài việc củng cố, tăng c­ường bộ máy kiểm tra, giám sát, các ông rất quan tâm đến việc tuyển chọn các quan Ngự sử. Tiêu chuẩn để các ông tuyển chọn vào chức quan Ngự sử th­ường cao hơn các chức quan khác. Quan Ngự sử giữ phong hoá, pháp độ, chức danh rất trọng nên đều đ­ược tuyển chọn trong số các quan có tiếng là tài giỏi, chính trực, thanh liêm và phải là những quan lại đã giữ chức đủ 4 lần khảo khoá (làm quan đ­ược 12 năm).

D­ưới triều các ông, việc kiểm tra, giám sát quan lại đ­ược tổ chức th­ường xuyên và nhiều khi cũng rất linh hoạt. Bộ máy kiểm tra, giám sát th­ường xuyên do các cơ quan chức năng như­ Ngự sử đài, Đô sát viện, Bộ hình, Lục tự... thực hiện. Khi ở một địa ph­ương nào đó có tham nhũng hay những “vấn đề nóng” các ông phái ngay những đoàn “Kinh l­ược đại sứ” của triều đình đến để xem xét, giải quyết. Những ng­ười dẫn đầu các đoàn “Kinh l­ược đại sứ” này đều là những ng­ười có uy tín, công minh và nghiêm khắc. 

Không chỉ kiểm tra, giám sát từ bên ngoài, các ông còn đề ra nhiều biện pháp để kiểm tra, giám sát từ bên trong tổ chức. Việc phát hiện những quan lại thanh liêm để khen thư­ởng và những quan lại tham nhũng, hối lộ để trừng trị không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan chức năng mà còn là trách nhiệm của các cơ quan hành chính các cấp. Các ông thường yêu cầu các cấp hành chính hàng năm phải lập danh sách những quan lại thanh liêm, đồng thời phải tố giác những quan lại tham nhũng để Ngự sử đài, Đô sát viện xem xét, xử tội và quyết định việc thăng giáng. Năm 1484, vua Lê Thánh Tông đã ra sắc chỉ yêu cầu các cấp hành chính phải tâu báo quan lại thanh liêm, tố giác quan lại tham nhũng để Ngự sử đài xem xét: “Các quan cai quản quân dân trong kinh, ngoài trấn, trong đó có ng­ười liêm khiết, cũng có kẻ tham nhũng, nếu không phân biệt nêu lên thì khuyên răn thế nào đ­ược. Trong thì đô đốc 5 phủ, ngoài thì đ­ường quan 3 ty: Đô, Thừa, Hiến, các quan hãy công bằng mà bảo cử các quan vệ, phủ, huyện, châu trong ngoài, ng­ười nào liêm khiết, ngư­ời nào tham nhũng đều phải khai rõ sự thực, hẹn trong 3 tháng kể từ ngày sắc chỉ đ­ưa tới, làm bản tâu lên cho Ngự sử đài xét lại”(3).

Chế độ “khảo thí” “khảo khoá” quan lại định kỳ, nghiêm túc cũng là cách để ông kiểm tra, giám sát có hiệu quả từ bên trong tổ chức.

4. Áp dụng chế độ “hồi tỵ” và lương bổng phù hợp cho quan lại để phòng chống tham nhũng

Chế độ “hồi tỵ” (Luật “hồi tỵ”) đ­ược vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng ban hành và thực hiện nghiêm túc đã mang lại những kết quả cụ thể trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng. Các ông thực hiện chế độ này với mục đích đề phòng quan lại gây bè, kéo cánh, đem tình cảm riêng câu kết với nhau để thực hiện hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật. Theo các ông, để bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả cần phải có đội ngũ quan lại làm việc vô t­ư, khách quan, không dùng quan hệ gia đình, ngư­ời thân để nâng đỡ, bao che cho nhau hay lập bè phái để vun vén lợi ích cá nhân.

Chúng ta đã thấy những quy định về chế độ “hồi tỵ” trong các văn bản luật và các chiếu chỉ d­ưới triều vua Lê Thánh Tông. Trong Bộ luật Hồng Đức, triều đình quy định những điều khoản phải “hồi tỵ” bao gồm: Cha con, thầy trò, anh em, vợ chồng, thông gia... không đ­ược làm quan cùng một chỗ, không đ­ược tổ chức thi cùng một nơi. Để ngăn ngừa việc kéo bè, kéo cánh liên quan đến quyền uy của dòng họ, vua Lê Thánh Tông thực hiện chế độ “hồi tỵ” ngay từ việc cắt đặt xã quan ở các làng xã. Năm 1480, ông xuống dụ quy định: “Từ nay các quan phủ, huyện, châu xét đặt xã tr­ưởng, hễ là anh em ruột, anh em con chú, con bác, bác cháu, cậu cháu với nhau thì chỉ cho một ng­ười làm xã trư­ởng, không đ­ược cho cả hai cùng làm để trừ mối tội bè phái hùa nhau”(4).

Chế độ “hồi tỵ” được vua Minh Mạng ban bố năm 1831 nhằm nghiêm cấm các hiện tượng tiêu cực trong thanh tra, xử án, chấm thi…  Ông đã đề ra những quy định “hồi tỵ” như: bố con, anh em ruột, chú bác, cô dì, những người có quan hệ thông gia, thầy trò thì không được làm quan cùng một chỗ; ai quê ở phủ, huyện nào thì phải đổi đi phủ, huyện khác; người có quan hệ thông gia, thầy trò cũng không được làm quan cùng một chỗ. Những quy định trong chế độ “hồi tỵ” cũng được áp dụng nghiêm ngặt trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình.

Các ông cũng đặt ra nhiều quy định cụ thể để xử phạt nếu quan lại nào vi phạm các quy định về chế độ “hồi tỵ” mà ông đã đặt ra.

Những quy định trong chế độ “hồi tỵ” đ­ược áp dụng d­ưới triều các ông là rất cụ thể, đối t­ượng, phạm vị áp dụng rộng đã góp phần làm cho bộ máy nhà nước đ­ược củng cố, ngăn chặn những hành vi tiêu cực, tình trạng cục bộ, bè phái, quan lại câu kết với nhau để tham nhũng làm lũng đoạn bộ máy nhà nước, bảo đảm sự công minh của pháp luật, chống việc trù dập người tố cáo, cậy quyền, cậy thế nhũng nhiễu lương dân.

Vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng rất quan tâm xây dựng một chế độ lương bổng hợp lý, công bằng cho đội ngũ quan lại. Dưới triều các ông, chế độ lương bổng được xây dựng căn cứ vào cấp chức và năng lực của quan lại. Năm 1477, vua Lê Thánh Tông đã lập ra quan chế, lễ nghi, chế độ lương bổng, lộc điền cho quan lại với những quy định cụ thể(5). Vua minh Mạng tiếp tục thực hiện chặt chẽ chế độ lương bổng cho quan lại. Cùng với lương bổng theo quy định, quan lại dưới triều vua Minh Mạng còn được cấp thêm một khoản tiền khác gọi là “Tiền dưỡng liêm”. Đây là khoản cấp thêm để gìn giữ sự liêm khiết của quan lại. Thời kỳ đầu của triều Nguyễn, theo quy định của vua Gia Long tiền dưỡng liêm chỉ dành cho quan lại cấp phủ, huyện bởi “phủ, huyện ở gần nhân dân, chức nhỏ nhưng nhiều việc, ngoài bổng chính ra cấp thêm tiền gạo dưỡng liêm để tỏ đặc cách”(6). Đến thời vua Minh Mạng đối tượng hưởng tiền dưỡng liêm được mở rộng đến tất cả quan lại để khuyến khích “tiết tháo trong sạch”. Các tài liệu lịch sử cho thấy, giá trị thực tế của khoản tiền dưỡng liêm mà quan lại được nhận dưới triều vua Minh Mạng là khá lớn, tương đương với số tiền lương bổng mà họ được nhận hàng tháng. Điều này có ý nghĩa rất lớn vì quan lại có thể dựa vào tiền dưỡng liêm mà giữ gìn liêm khiết của bản thân để có thể làm việc một cách công tâm. Cấp “tiền dưỡng liêm” cho quan lại là một biện pháp góp phần quan trọng trong việc ngăn ngừa tham nhũng dưới chế độ phong kiến Việt Nam.

5. Dựa vào muôn dân để giám sát, phát hiện quan lại tham nhũng

D­ưới triều vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng mỗi ng­ười dân đều có quyền gửi đơn lên triều đình hoặc gửi trực tiếp cho nhà vua mỗi khi các ông đi vi hành. Trong ch­ương “Vi chế” của Bộ luật Hồng Đức có tới 3 điều (Điều 74,76, 112) quy định việc khen thư­ởng cho ngư­ời dân nào tố cáo đ­ược quan lại tham nhũng. Khuyến khích ng­ười dân tố cáo quan lại, ông cũng không quên nhắc nhở họ phải tố cáo có căn cứ, đúng ng­ười, đúng tội. Điều 41, ch­ương “Đấu tụng” có quy định: “Kẻ nào vu cáo các quan trên tại chức ở bản phủ thì bị xử tội như­ tội hình vu cáo”.

Dưới triều vua Minh Mạng, trong những trường hợp khẩn thiết hay nỗi oan quá lớn, người dân có thể đến Công chính đường đánh một hồi trống “Đăng văn” sẽ có quan của Tam pháp ty ra nhận đơn, lập tòa xem xét, giải quyết. Để tố cáo quan lại tham nhũng, người dân đều có thể dâng “mật tấu” lên nhà vua hoặc Tam pháp ty (gồm Đô sát viện, Bộ hình và Đại lý tự).

Khi xây dựng Kinh đô Huế, vua Minh Mạng đã công khai các công việc, yêu cầu dân chúng và đặc biệt là binh lính, thợ thuyền giúp nhà vua trông coi vật tư, tài sản, phát hiện quan lại tham nhũng trong xây dựng. Trên các công trường xây dựng, chỉ dụ của nhà vua về các thủ đoạn tham nhũng, danh sách những quan lại vi phạm pháp luật được niêm yết ở nhiều nơi để người dân biết, giúp nhà vua giám sát và phát hiện quan lại tham nhũng.

6. Xử phạt nghiêm minh quan lại tham nhũng để những quan lại khác “sợ mà tránh”

Để phòng chống tham nhũng hiệu quả, vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng lấy việc xử phạt nghiêm minh những quan lại tham nhũng là một biện pháp quan trọng. Các ông xử phạt các hành vi tham nhũng không câu nệ vào vị thế của ng­ười phạm tội, kể cả những ng­ười thân cận, các quan đầu triều và con cháu trong hoàng tộc. Trong hầu hết các trư­ờng hợp tham nhũng, dù là th­ường dân hay quan lại cấp cao của triều đình, các ông đều xử phạt rất nghiêm minh theo đúng các quy định của pháp luật. Chỉ tính riêng năm 1467 vua Lê Thánh Tông đã xử 30 vụ quan lại tham nhũng. Trong số các quan lại bị ông cách chức có tới 4 th­ượng th­ư, 2 đô đốc. Nhiều quan lại khác trong triều cũng bị xét xử với đủ các mức án khác nhau, từ xử biếm đến giáng chức, l­ưu đầy và kể cả án tử hình(7).

Chúng ta có thể kể ra một vài vụ án để minh hoạ:

- Năm 1464, ông đã cách chức Th­ượng th­ư Bộ binh Nguyễn Vĩnh Tích vì tội nhận hối lộ và xin bổng lộc không đúng nguyên tắc cho ng­ười nhà.

- Năm 1467, ông cách chức Th­ượng th­ư Bộ lại Nguyễn Như­ Đổ vì tiến cử ngư­ời xấu và thuyên bổ không rõ ràng để nhận hối lộ.

- Năm 1468, ông đã khước từ việc xin dùng tiền để chuộc tội của Lê Bô - một viên quan thân cận - người đã có công đưa ông lên ngôi vua sau loạn Nghi Dân.

Vua Minh Mạng luôn coi tham nhũng là loại tội phạm nghiên trọng, cần phải nghiêm khắc trừng trị để đội ngũ quan lại không “khinh nhờn pháp luật”. Sách Đại Nam thực lục chính biên ghi chép vụ án tham nhũng xảy ra vào tháng 9 năm 1826 d­ưới triều ông nh­ư sau: “Ng­ười làm việc ở Kinh là Trần Công Trung, đòi ăn tiền, làm khó dễ, việc phát giác. Vua giao cho Bộ hình tra xét, thành án, vua nói: “Tang vật của vụ án Trần Công Trung tuy không quá 10 lạng, nh­ưng luật quý ở chỗ làm cho lòng ng­ười sợ hãi, nếu nhu nhơ để sống một mạng ấy thì e sau này những kẻ khinh nhờn pháp luật sẽ nhiều ra, không thể giết hết  đư­ợc. Vua sai chém Trung ở chợ Đông”(8).

Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, vua Minh Mạng chủ tr­ương “Sát nhất nhân vạn nhân cụ” (Giết một ng­ười để muôn ng­ười sợ mà tránh). Đọc những t­ư liệu lịch sử dư­ới triều vua Minh Mệnh chúng ta cũng gặp không ít        tr­ường hợp nhà vua đã xử biếm, xử đầy, xử trảm những quan lại tham nhũng, kể cả những viên quan cao cấp nh­ư Phó tổng trấn Gia Định thành Hoàng Công Lý, cai án Nam Định Phan Thanh, tri phủ Kiến X­ương Nguyễn Công Tuy, v.v…

Để pháp luật đ­­ược thực hiện nghiêm minh, vua Minh Mạng luôn xét xử các hành vi tham nhũng khách quan, công bằng. Ông không chỉ xử phạt nghiêm với ng­­ười ngoài hoàng tộc mà còn xử phạt rất nặng ngay với con cháu và bậc bề tôi của mình khi họ tham nhũng. Vụ xử án sát Quảng Ngãi Nguyễn Đức Hội là một ví dụ. Nguyễn Đức Hội vốn là bề tôi thân cận của vua Minh Mạng nên đã tự cho mình cái quyền lơ là với chức phận, mặc sức tham nhũng. Khi hành vi tham nhũng của y bị phát giác, vua Minh Mạng đã cách chức Nguyễn Đức Hội và phát vãng ra Cam Lộ làm lính cơ Định man. Nhân cơ hội đó, vua Minh Mạng đã dụ các quan trong triều rằng: “Ta từ khi lên ngôi đến nay, dùng ng­­ười làm việc, giữ một mực công bằng, dẫu có kẻ tôi con thân tín cũng chỉ dùng theo tài năng, chứ không t­ư vị một ng­­ười nào. Kẻ nào có tội đều theo pháp luật mà trừng trị, ch­­ưa từng g­ượng nhẹ bao giờ”(8). Cũng theo Đại Nam thực lục, năm 1822, vùng Quảng Đức và Quảng Trị bị thiên tai bão lụt, nhà cửa bị cuốn trôi, thóc gạo khan hiếm, đắt đỏ. Trước tình cảnh đó, triều đình phát 25.000 hộc thóc để cấp cho dân. Quản lý kho thóc ở Kinh thành là Đặng Văn Khuê đã ăn bớt nên khi thóc đến dân, mỗi hộc thóc bị thiếu một ít. Vụ việc bị phát giác, vua Minh Mạng giao Bộ Hình tra xét. Án xong tâu lên, nhà vua liền ra lệnh chém đầu. 

Vua Minh Mạng cũng không hề nương nhẹ ngay cả với người thân của mình khi họ phạm tội. Vụ án Huỳnh Công Lý là vụ án gây xôn xao dư luận dưới triều vua Minh Mạng. Huỳnh Công Lý là bố của một phi tần của vua Minh Mạng. Ông là một công thần trợ giúp đắc lực vua Gia Long mở mang bờ cõi xuống phía Nam. Ông là Phó tổng trấn thành Gia Định, phụ tá đắc lực của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Ông đã lợi dụng chức vụ tham ô hơn 3 vạn quan tiền. Nhận được tờ tấu của Bộ Hình, vua Minh Mạng đã bút phê như sau: “Trẫm nuôi dân như con, thật không chịu phí tổn nhưng bọn quan lại tham lam ngấm ngầm chứa đầy thú riêng. Huỳnh Công Lý tuy có nhiều công trạng nhưng không từ bỏ được lòng tham. Nếu các viên quan đều như vậy thì dân ta biết nhờ cậy vào đâu. Tuy có nhiều thương xót nhưng trẫm vấn quyết định phải chém đầu”. Vụ án khác là vụ Miên Phú. Miên Phú là Hoàng tử thứ 8 của vua Minh Mạng, do ham chơi, Miên Phú rủ bạn bè đua ngựa trong hoàng thành làm chết bà cụ 80 tuổi. Biết tin ấy ông rắt tức giận và lệnh Cơ mật viện và Bộ Hình “lột hết áo mũ của Miên Phú, cắt hết lương bổng hàng năm, đóng cửa bắt hắn phải ở nhà để tự xét mình sửa lỗi. Miên Phú cũng không được dự vào hàng các Hoàng tử”. 

Đối với tài sản tham nhũng, vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng cũng ban hành các quy định rất cụ thể, dựa trên nguyên tắc người có hành vi tham nhũng đều phải bồi thường gấp đôi số tài sản tham nhũng. Điều 138, 351 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Những quan lại ăn hối lộ, biển thủ khi thu thuế đều bị phạt gấp đôi số tài sản đã tham nhũng”. 

Vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng đấu tranh phòng chống tham nhũng bằng nhiều biện pháp pháp khác nhau và các biện pháp đó đã hạn chế    đ­ược sự tha hoá của đội ngũ quan lại d­ưới chế độ phong kiến. Những biện pháp pháp phòng chống tham nhũng của các ông bao gồm: tuyển chọn đội ngũ quan lại cho kỹ, cả năng lực và đức hạnh; xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát chặt chẽ, khảo công, luận tội th­ường xuyên; áp dụng chế độ “hồi tỵ”, trả lương bổng phù hợp; dựa vào muôn dân để giám sát quan lại; xử phạt quan lại tham nhũng nghiêm minh, nhất là đối với những quan lại có phẩm trật cao trong triều đình.

Những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, nhưng tệ nạn tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, thủ đoạn tham nhũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Số l­ượng tài sản của nhà n­ước bị chiếm đoạt, thất thoát nhiều, số đối t­ượng tham nhũng tăng, trong đó có nhiều cán bộ chủ chốt. Nghiên cứu, học tập kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của vua Lê Thánh Tông và vua Minh Mạng là việc “ôn cố tri tân”, tạo cơ sở để chúng ta tiếp thu và vận dụng sáng tạo tinh hoa của dân tộc, từ đó rú ra những giá trị tham khảo cho cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

------------------------------------------------------

Ghi chú:

(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỳ thực lục kỷ nhà Lê, NXB KHXH, 1995, trang 350.

(2) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỳ thực lục kỷ nhà Lê, NXB KHXH, 1995, trang 341.

(3) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỳ thực lục kỷ nhà Lê, NXB KHXH, 1995, trang 359.

(4) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỳ thực lục kỷ nhà Lê, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội - 2006, trang 341.

(5) Theo chính sách lương bổng của vua Lê Thánh Tông bắt đầu được thực hiện vào năm 1477, mỗi năm, các quan làm việc trong kinh được cấp lương bổng theo các thứ bậc phẩm tước, cao nhất là Hoàng Thái tử: 500 quan, thấp nhất là Nha môn loại II: 10 quan (mỗi quan có giá trị tương đương với một lạng bạc hoặc 200kg thóc).

(6) Đại Nam thực lục, tập IV, NXB Sử học, Hà Nội - 1963, trang 341-342.

(7) Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỳ thực lục kỷ nhà Lê, NXB KHXH, 1995, trang 323.

(8) Đại Nam thực lục chính biên, Quốc sử quán triều Nguyễn, NXB KHXH, Hà Nội - 1966, tập XVIII, trang 311.

PGS.TS. Bùi Huy Khiên - Trường Đại học Thành Đông

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Đổi mới quản trị quốc gia: Kinh nghiệm quốc tế và một số gợi ý cho Việt Nam

Ngày đăng 07/11/2025
Tóm tắt: Việt Nam nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế để hiện thực hóa một tầm nhìn phát triển nhất quán về nền kinh tế phồn thịnh, xã hội hạnh phúc, quốc gia phồn vinh, hòa hợp với thế giới. Việt Nam đã trở thành biểu tượng truyền cảm hứng tích cực trên trường quốc tế, đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển. Trong quá trình nghiên cứu, vận dụng kinh nghiệm quốc tế vào quản trị quốc gia, Việt Nam cần kiên định chủ trương, quan điểm chính trị để thiết kế mục tiêu và lộ trình đổi mới quản trị quốc gia hài hòa giữa  chính trị, kinh tế và văn hóa. Chú trọng các nội dung: Nâng cao năng lực quản trị của Nhà nước; Đầu tư vào con người và tiếp thêm năng lượng cho đội ngũ; Phát huy vai trò của think-tank và các tổ chức nghiên cứu độc lập; Cải thiện chất lượng chuyển giao chính sách.

Bồi dưỡng năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội hiện nay

Ngày đăng 03/11/2025
Tóm tắt: Đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn giữ vai trò nòng cốt trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, góp phần bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng cho học viên trong các nhà trường quân đội. Trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay, việc nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trở thành nhiệm vụ cấp thiết. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, làm rõ sự cần thiết và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng, phát triển năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên này trong các nhà trường quân đội hiện nay.

Bảo vệ sự trong sáng, khách quan trong hoạt động báo chí

Ngày đăng 01/11/2025
Tóm tắt: Công tác báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng trong tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, củng cố niềm tin và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Báo chí là cầu nối thông tin giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, đồng thời là phương tiện quan trọng để quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tuy nhiên, trước thềm Đại hội XIV của Đảng, khi vai trò của báo chí được đặt ra với yêu cầu và kỳ vọng cao hơn bao giờ hết, vẫn còn xuất hiện một số trường hợp suy thoái về bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng ngòi bút để xuyên tạc, làm sai lệch bản chất sự việc, ảnh hưởng đến uy tín của báo chí cách mạng.

Nâng cao hiệu quả quản lý viên chức chuyên ngành địa chính tại văn phòng đăng ký đất đai thuộc sở nông nghiệp và môi trường tỉnh Gia Lai

Ngày đăng 24/10/2025
Tóm tắt: Viên chức chuyên ngành địa chính tại Văn phòng đăng ký đất đai có vị trí quan trọng mang tính quyết định đến việc thực hiện các quy định của Luật Đất đai và các đạo luật khác liên quan đến lĩnh vực đất đai. Viên chức chuyên ngành địa chính tại Văn phòng đăng ký đất đai cũng góp phần đắc lực trong việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương hai cấp ở nước ta hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý viên chức chuyên ngành địa chính tại Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới.

Phát huy vai trò của chức sắc Phật giáo Nam tông Khmer hòa giải mâu thuẫn trong cộng đồng

Ngày đăng 24/10/2025
Tóm tắt: Trong bối cảnh quản trị xã hội đa chủ thể và trước những chuyển biến trong đời sống cộng đồng dân tộc - tôn giáo, việc đổi mới phương thức hòa giải ở cơ sở theo hướng huy động nguồn lực tôn giáo là yêu cầu cấp thiết. Bài viết tập trung phân tích vai trò của đội ngũ chức sắc Phật giáo Nam tông Khmer trong công tác hòa giải mâu thuẫn, góp phần củng cố khối đoàn kết trong cộng đồng trên địa bàn tỉnh Trà Vinh (cũ). Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ này trong việc giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh sáp nhập đơn vị hành chính mới, đồng thời thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp.