Hà Nội, Ngày 11/07/2025

Tư tưởng V.I.Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ vô sản với nhà nước vô sản và ý nghĩa đối với việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Ngày đăng: 15/06/2025   08:50
Mặc định Cỡ chữ

Tóm tắt: Tư tưởng V.I.Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ vô sản với nhà nước vô sản có ý nghĩa quan trọng trong hệ thống di sản lý luận và thực tiễn về thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết. Mối quan hệ giữa dân chủ vô sản với nhà nước vô sản là thống nhất, biện chứng nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết của các giai cấp, tầng lớp nhân dân để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Bài viết làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ vô sản với nhà nước vô sản; qua đó, rút ra thực tiễn đối với việc phát huy dân chủ ở đơn vị cơ sở để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại hiện nay, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. 

Từ khóa: V.I.Lênin; dân chủ vô sản; nhà nước vô sản; Quân đội nhân dân Việt Nam. 

Sum mary: V.I.Lenin's thought on the relationship between proletarian democracy and the proletarian state has an important meaning in the system of theoretical and practical heritages of the transitional period to build socialism in Soviet Russia. The relationship between proletarian democracy and the proletarian state is unified and dialectical in order to promote the solidarity of classes and strata of people to build the material and technical foundation for socialism. The article clarifies the basic contents of V.I.Lenin's thought on the relationship between proletarian democracy and the proletarian state; thereby, drawing practical conclusions on promoting democracy at the grassroots level to build a strong and elite Vietnam People's Army, advancing straight to modernity today, contributing to bringing the country into a new era, the era of national development.

Key words: V.I.Lenin; proletarian democracy; proletarian state; Vietnam People's Army.

Trên cơ sở kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa dân chủ vô sản với nhà nước vô sản, V.I.Lênin đã làm sáng tỏ hơn nữa bản chất, vai trò của dân chủ vô sản trong việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, có ý nghĩa thời đại sâu sắc, trở thành kim chỉ nam trong việc xây dựng và bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa. Những quan điểm, tư tưởng đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể cách mạng Việt Nam để xây dựng các tổ chức, lực lượng, trong đó có Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. 

1. Tư tưởng V.I.Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ vô sản với nhà nước vô sản

Dân chủ vô sản được phôi thai từ thực tiễn cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp và Công xã Pari năm 1871, tuy nhiên, chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới (năm 1917), nền dân chủ vô sản mới chính thức được xác lập. Sự ra đời của nền dân chủ vô sản chính thức đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ. Quá trình phát triển của nền dân chủ vô sản bắt đầu từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, có sự kế thừa những tinh hoa giá trị của nền dân chủ trước đó, đồng thời bổ sung và làm sâu sắc thêm những giá trị của nền dân chủ mới. Dân chủ vô sản là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 

Dân chủ vô sản luôn gắn liền với sự ra đời của nhà nước vô sản, là kiểu nhà nước mà ở đó sự thống trị chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội; về bản chất nó là chính quyền của nhân dân, là quyền lực của nhân dân; là tổ chức, thông qua đó đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò của mình đối với toàn xã hội. Bản chất giai cấp của nhà nước vô sản thể hiện ở chỗ nhà nước đó do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, thực hiện dân chủ thực sự với nhân dân, bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Bản chất này do cơ sở kinh tế và chế độ chính trị xã hội của chủ nghĩa xã hội quy định. Nhà nước vô sản là nhằm đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng những thiết chế, những cơ sở để quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện một cách thực sự trong thực tế. Nhà nước vô sản là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; nhà nước bảo đảm trên thực tế những quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân.

Chính vì vậy, dân chủ vô sản và nhà nước vô sản là hai mặt không thể tách rời của một thể chế chính trị có mối quan hệ biện chứng, tác động và thúc đẩy lẫn nhau, trong đó dân chủ vô sản là nội dung cốt lõi, là bản chất của nhà nước vô sản; đồng thời, nhà nước vô sản là công cụ, phương tiện để bảo vệ và phát huy dân chủ vô sản với mục tiêu chung là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Mỗi giai đoạn lịch sử, mối quan hệ này được biểu hiện cụ thể, mang nội dung và đặc thù khác nhau. V.I.Lênin đã luận giải làm rõ dân chủ vô sản vừa là bản chất, mục tiêu, phương thức, nội dung vừa là động lực trong xây dựng nhà nước vô sản. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước”1. Từ đó, V.I.Lênin đã chỉ rõ bản chất của dân chủ, đó là: “bất cứ nền dân chủ nào, xét đến cùng cũng đều phục vụ sản xuất và xét đến cùng đều do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết định”2. Trên cơ sở nền tảng về dân chủ nói chung, bằng hoạt động thực tiễn, V.I.Lênin đã chỉ rõ bản chất cách mạng, khoa học của dân chủ xã hội chủ nghĩa “chế độ dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào cũng dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền Xô viết so với nước cộng hoà tư sản dân chủ nhất thì cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”3. Dân chủ xã hội chủ nghĩa đem lại quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, còn dân chủ tư sản chỉ đem lại quyền và lợi ích cho một nhóm người, cho thiểu số. V.I.Lênin khẳng định: “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng: đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản”4. 

Nhà nước vô sản là một hình thức chính trị trong chế độ dân chủ vô sản; là công cụ, phương tiện để thực hiện dân chủ vô sản. V.I.Lênin viết: “nhà nước trong thời kỳ đó tất nhiên phải là một nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối với những người vô sản và nói chung những người không có của), và chuyên chính kiểu mới, chống giai cấp tư sản”5. Điều đó có nghĩa là, nhà nước vô sản thực sự vì lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân, đứng về phía người lao động, đại diện cho tiếng nói của quảng đại quần chúng nhân dân, khi đó, chế độ dân chủ vô sản mới trở thành hiện thực, đi vào thực tiễn cuộc sống, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của các tầng lớp nhân dân, phục vụ hữu ích cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chế độ dân chủ nhà nước của giai cấp vô sản thực hiện tốt việc quản lý xã hội và chấn áp những phần tử phản động, bọn cơ hội xét lại, địa ngược với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Chuyên chính vô sản hoàn toàn không phải chỉ là lật đổ giai cấp tư sản hay địa chủ - công việc ấy đã được thực hiện trong tất cả các cuộc cách mạng – nền chuyên chính vô sản của chúng ta là ở chỗ bảo đảm trật tự, kỷ luật, năng xuất lao động, sự kiểm kê và kiểm soát, bảo đảm chính quyền Xô viết vô sản, một chính quyền vững chắc hơn, cứng rắn hơn chính quyền trước kia”6. Đó chính là bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản, là động lực, là mục tiêu mà nhân loại đã, đang và sẽ hướng tới. 

V.I.Lênin còn chỉ rõ chế độ dân chủ vô sản tốt là điều kiện xây dựng nhà nước vô sản vững mạnh, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả; và ngược lại, nhà nước vô sản vững mạnh là điều kiện thực hiện tốt hơn dân chủ vô sản, đó là dân chủ phải gắn liền với sự tự do, với việc được tự do trình bày những ý kiến, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp vào công cuộc dựng xây, kiến thiết đất nước. Mỗi người dân đều có quyền được tham gia vào các hoạt động xã hội mà không bị ngăn cản, hạn chế. V.I.Lênin chỉ rõ: “tự do thảo luận, thống nhất hành động, đó là những điều mà chúng ta cần phải đạt được”. Đó cũng chính là mục đích, bản chất chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, của nhà nước chuyên chính vô sản, đặt ra cho giai cấp công nhân, thông qua đội tiền phong là đảng cộng sản phát huy quyền làm chủ của người dân; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân; thực hành dân chủ trong đảng, nêu cao tinh thần đoàn kết, nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện công khai, minh bạch trong mọi hoạt động, bảo đảm nhân dân được nắm bắt thông tin một cách kịp thời. V.I.Lênin chỉ rõ: “Chúng ta không sợ công khai phơi bày các sai lầm của chúng ta để sửa chữa”7. 

2. Ý nghĩa đối với việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình hiện nay

Những quan điểm, tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ vô sản và nhà nước vô sản vẫn còn nguyên giá trị lý luận, thực tiễn, mang tính thời sự nóng hổi, đặt ra cho cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương; nhất là cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì đơn vị quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại trong kỷ nguyên vươn mình hiện nay. 

Trước hết, phải nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về dân chủ, phát huy dân chủ và xây dựng các tổ chức trong Quân đội. 

Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hướng dẫn của Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”; thực hiện tốt các nội dung dân chủ về chính trị, dân chủ về quân sự, dân chủ về hậu cần, kỹ thuật, dân chủ về đời sống. Quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt; đồng thời kết hợp với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì trong sạch về phẩm chất đạo đức, lối sống; có năng lực, phương pháp tác phong công tác tốt; lắng nghe và chia sẻ với khó khăn, vất vả của cấp dưới, nhất là những đồng chí có hoàn cảnh gia đình khó khăn; tổ chức những buổi đối thoại dân chủ để giải đáp những thắc mắc, ý kiến của cán bộ, chiến sĩ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; điều chỉnh kịp thời phương pháp, tác phong công tác làm việc của lãnh đạo, chỉ huy đơn vị. 

Duy trì và thực hiện nghiêm các chế độ nền nếp quy định trong ngày, trong tuần, phát huy dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, chấp hành nghiêm quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kỷ luật Quân đội, quy định đơn vị; dân chủ trong khuôn khổ, mang tính chất xây dựng, động viên, khen thưởng; tuyệt đối tránh tư tưởng dân chủ quá trớn, dân chủ vô hạn độ, dân chủ không mang tính chất xây dựng, thậm chí còn lợi dụng dân chủ để bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, gây mất đoàn kết trong nội bộ. Người đứng đầu, cán bộ chủ trì gương mẫu trong lời nói và hành động; nói và làm đi liền với nhau, là hạt nhân đoàn kết trong quy tụ và phát huy sức mạnh của tập thể trong tham mưu, góp ý, đề xuất, chia sẻ những kinh nghiệm, cách làm hay trong nâng cao chất lượng huấn luyện, xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tốt việc gần gũi, lắng nghe và giải đáp kịp thời những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ tạo sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức, hành động trong thực hiện nhiệm vụ; quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ đúng theo quy định, những quân nhân có gia đình khó khăn kịp thời giải quyết các chế độ, chính sách để động viên, khích lên trong toàn đơn vị. 

Hai là, học tập, nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, đầy đủ nội dung về dân chủ, phát huy dân chủ và xây dựng các tổ chức trong Quân đội.

Quân đội là môi trường quân sự đặc thù có tính kỷ luật cao, vì vậy, việc học tập, nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, đầy đủ nội dung về dân chủ và phát huy dân chủ có ý nghĩa rất quan trọng; giúp cán bộ, chiến sĩ nhận biết rõ những nội dung cần phát huy dân chủ và nội dung gì không được tham gia góp ý. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì thực hiện đúng, đủ các nội dung về phát huy dân chủ trên các mặt; bảo đảm đầy đủ quyền và lợi ích của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; không có tình trạng vi phạm dân chủ, hạn chế dân chủ, áp đặt chủ quan của cấp trên cho cấp dưới. Mỗi chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng của các cơ quan, đơn vị đều được tập thể cấp ủy bàn bạc, thảo luận dân chủ, kỹ lưỡng, phát huy được trí tuệ của cán bộ, đảng viên; trên có sở đó, đưa ra chi bộ, hội đồng quân nhân thảo luận cho ý kiến về cách thức, phương pháp thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị. Định kỳ hàng tháng các cơ quan, đơn vị duy trì và thực hiện nghiêm việc đối thoại dân chủ với cán bộ, chiến sĩ; qua đó, đề kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về mặt tư tưởng, góp phần xây dựng vững mạnh, toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu” thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; xây dựng môi trường văn hóa quân sự trong sạch, vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ có không gian vui chơi, lành mạnh, phát huy được năng lực, sở trường, thế mạnh của bản thân vào các hoạt động khác nhau. Bảo đảm vừa thực hiện nhiệm vụ, vừa nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ; qua đó, nâng cao nhu cầu hưởng thụ giá trị văn hóa, tái tạo sức lao động mới, tạo sự hưng phấn cho cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ tiếp theo; phòng, chống được tư tưởng ngại khó, ngại khổ, ngại rèn, thụ động, bình quân chủ nghĩa của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ.  

Những văn bản mới của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương khi được ban hành được cập nhật đến cán bộ, chiến sĩ; trên cơ sở đó cụ thể hóa vào từng nội dung, hoạt động cụ thể nhằm phát huy cao nhất tính năng động, sáng tạo của các bộ phận, lực lượng để thực hiện thắng lợi các yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách dân chủ và quyết đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thường xuyên đổi mới phương pháp tác phong công tác phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ ở mỗi giai đoạn, thời điểm đặt ra. Từng bước khắc phục phong cách gia trưởng, quan liêu, tùy tiện, thiếu trách nhiệm.

Ba là, vận dụng vào quá trình tổ chức thực hiện phát huy dân chủ và xây dựng các tổ chức trong Quân đội. 

Việc thực hiện dân chủ ở đơn vị cơ sở góp phần xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng trong sạch, vững mạnh; đủ năng lực, uy tín lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của đơn vị là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, giữ vững truyền thống của đơn vị, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Theo đó, trong quá trình thực hiện phát huy dân chủ và xây dựng các tổ chức như: tổ chức chỉ huy, tổ chức đảng, Hội đồng quân nhân, Đoàn Thanh niên, Công đoàn, nữ công giữ vững những nguyên tắc của Đảng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng đối với mọi hoạt động của đơn vị; tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, gắn với chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Các tổ chức trong Quân đội ở đơn vị cơ sở phải bám sát mọi hoạt động của bộ đội để xây dựng chương trình, kế hoạch huấn luyện sát, hợp với địa bàn, khu vực, khơi dậy được tính dân chủ của cán bộ, chiến sĩ. Xây dựng các tổ chức trong Quân đội ở đơn vị cơ sở mang tính toàn diện, sâu sắc, thường xuyên cập nhật, bổ sung những thông tin mới có liên quan đến tình hình thế giới, khu vực và trong nước cho cán bộ, chiến sĩ. Trên cơ sở đó, làm tốt công tác định hướng chính trị tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, bồi dưỡng niềm tin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho bộ đội. Các tổ chức trong Quân đội ở đơn vị cơ sở, nhất là Hội đồng quân nhân phải thực sự là diễn đàn dân chủ để bộ đội bày tỏ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình; là tiếng nói, đại diện cho quyền và lợi ích của cán bộ, chiến sĩ; mọi nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị được Hội đồng quân nhân thảo luận dân chủ thẳng thắn, khách quan, mang tính xây dựng vì sự ổn định, phát triển của cơ quan, đơn vị. 

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; mâu thuẫn, xung đột biên giới, lãnh thổ ngày càng gay gắt đe dọa đến an ninh, hoà bình thế giới… Thực tiễn đó, đặt ra cho mỗi quốc gia, dân tộc cần tôn trọng quyền tự do dân chủ của người dân, phát huy vai trò lãnh đạo của những nhà cầm quyền trong giải quyết những mâu thuân, bất đồng tìm ra tiếng nói chung, xây dựng một thế giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Thế giới còn nhiều đổi thay, song tư tưởng của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước vô sản vẫn còn nguyên giá trị, là những chỉ dẫn quý báu để các chính đảng trên thế giới, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước mình. Trong hơn 95 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân chủ và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa đã trở thành mục tiêu, động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước”8. 

GHI CHÚ

(1),(4),(5). V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.33, tr.123,109, 43

(2). V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.42, tr.345. 

(3). V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.37, tr.312-313. 

(6). V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.36, tr.319. 

(7). V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.44, tr.120. 

(8). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.71. 

Thiếu tá Hồ Nam Khánh 
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

 

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Chuyển đổi số trong hoạt động của Văn phòng cấp ủy

Ngày đăng 08/07/2025
Tóm tắt: Hiện nay, chuyển đổi số trong hoạt động tại các cơ quan của Đảng nói chung và trong hoạt động của văn phòng cấp ủy nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, những chuyển biến trong chuyển đổi số hoạt động của văn phòng cấp ủy còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại; ứng dụng chuyển đổi số trong công việc còn chậm và chưa được như kỳ vọng. Vì vậy, việc đề xuất các giải pháp khắc phục giúp thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động tham mưu, phục vụ của công tác văn phòng cấp ủy là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập trong bối cảnh đẩy mạnh sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy

Ngày đăng 07/06/2025
Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập trong bối cảnh cả nước đang đẩy mạnh sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Qua đó, góp phần hoàn thiện, phát triển hệ thống GDNN, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về đào tạo nhân lực cho thị trường lao động trong bối cảnh mới.  

Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí: Cần đi vào thực chất và hiệu quả

Ngày đăng 06/06/2025
Tóm tắt: Bài viết làm rõ quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như một yêu cầu chiến lược, gắn với phát triển bền vững đất nước. Ba nội dung then chốt được xác định: (1) Nhận thức tiết kiệm là giải pháp căn cơ trong bối cảnh khó khăn; (2) Triển khai đồng bộ các giải pháp hoàn thiện thể chế, tinh gọn bộ máy, phát triển công nghệ, đẩy mạnh phân quyền, xử lý tài sản công hiệu quả; (3) Xây dựng văn hóa tiết kiệm, khen thưởng gương mẫu, xử lý nghiêm vi phạm. Bài viết cũng phân tích nguyên nhân khiến chương trình tiết kiệm, chống lãng phí chưa đi vào thực chất. Từ đó, nhấn mạnh vai trò của việc sửa đổi Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và củng cố hành lang pháp lý, nâng cao kỷ luật công vụ, đưa tiết kiệm trở thành chuẩn mực đạo đức và văn hóa ứng xử trong toàn xã hội. Từ khóa: Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, trách nhiệm xã hội.

Tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Sóc Trăng đối với công tác vận động đồng bào Khmer

Ngày đăng 05/06/2025
Tóm tắt: Thời gian qua, Tỉnh ủy Sóc Trăng luôn quan tâm chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động đồng bào Khmer và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần ổn định chính trị - xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội và từng bước nâng cao đời sống cho đồng bào. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác vận động đồng bào Khmer ở tỉnh Sóc Trăng vẫn còn một số hạn chế đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.

Vai trò của chính quyền cấp cơ sở và giải pháp tăng cường tính phục vụ của chính quyền cấp cơ sở trong chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày đăng 22/05/2025
Tóm tắt: Chính quyền cấp cơ sở đóng vai trò quan trọng trong chính quyền địa phương 02 cấp, là cầu nối trực tiếp giữa Nhà nước và nhân dân, thực hiện nhiều chức năng và nhiệm vụ quan trọng, cần thiết trong phục vụ nhân dân, cộng đồng; là cấp chính quyền gần dân, sát dân, bảo đảm thi hành pháp luật trong địa bàn, thực hiện quản lý nhà nước trên địa bàn địa phương và cung cấp dịch vụ công thiết yếu cho người dân, tổ chức. Để tăng cường tính phục vụ của chính quyền cấp cơ sở cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, tăng cường cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tăng cường trang thiết bị điều kiện làm việc và mở rộng dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của người dân trong hoạt động của chính quyền cấp cơ sở. Từ khóa: Chính quyền cấp cơ sở; chính quyền phục vụ; nhà nước của dân do dân và vì dân.