Hà Nội, Ngày 21/05/2025

Ứng dụng sự phát triển của khoa học - công nghệ vào đổi mới phương pháp dạy và học ngoại ngữ

Ngày đăng: 08/05/2025   11:02
Mặc định Cỡ chữ

Tóm tắt: Trong lộ trình đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, ngoại ngữ trở thành cầu nối để nước ta có thể hiện thực hoá các mục tiêu của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, phương pháp dạy và học ngoại ngữ ở nước ta hiện nay vẫn còn những hạn chế, bất cập dẫn đến chất lượng đào tạo và ứng dụng ngoại ngữ trong môi trường thực tiễn chưa đáp ứng yêu cầu. Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc ứng dụng các thành tựu đó để đổi mới phương pháp dạy và học ngoại ngữ là vấn đề tất yếu khách quan, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát triển của đất nước.

Từ khóa: Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; đổi mới phương pháp; dạy và học ngoại ngữ.

Abstract: In the roadmap to accelerate globalization and deepen regional and international integration, foreign languages have become a bridge for our country to realize the goals of the new era-the era of the nation's rise. However, current foreign language teaching and learning methods in Vietnam still face limitations and inadequacies, leading to training quality and practical application of foreign languages failing to meet requirements. In the context of the rapid development of the Fourth Industrial Revolution, applying its achievements to innovate foreign language teaching and learning methods has become an objective necessity, contributing to improving the quality of human resources to meet the country's integration and development requirements.

Keywords: the Fourth Industrial Revolution; method innovation; foreign language teaching and learning.

Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, dân tộc không thể tự tách mình ra khỏi phần còn lại của thế giới, mà giữa các nước, các khu vực cần có sự liên kết, hợp tác để cùng nhau phát triển và đối phó với những nguy cơ tiềm ẩn, thách thức đến cuộc sống nhân loại. Hội nhập quốc tế là quá trình gắn kết của các quốc gia lại với nhau theo những quy định, cam kết nhất định nhằm phục vụ cho sự phát triển chung của các nước trong cộng đồng. Vì vậy, Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định trong bối cảnh hiện nay chúng ta cần “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”(1). Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội XIV của Đảng cũng nhấn mạnh: “Gắn kết chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia”(2). Với thế và lực đã tích lũy được sau 40 năm đổi mới, cùng sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Ngày 19/12/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo đến năm 2030, trong đó có mục tiêu phấn đấu đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Trong bối cảnh đó, việc đưa các môn ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh vào giảng dạy ở các trường học là tất yếu khách quan đáp ứng xu thế hội nhập, phát triển của đất nước và mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao.

Trên thực tế hoạt động dạy và học ngoại ngữ ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến hết năm học 2018-2019, toàn ngành đã hoàn thiện chương trình cho trẻ mầm non làm quen tiếng Anh; đã có 7.030 giáo viên tiếng Anh được bồi dưỡng về năng lực ngôn ngữ tiếng Anh và năng lực sư phạm. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn thành xây dựng khung năng lực giáo viên ngoại ngữ; bộ tiêu chí đánh giá các đơn vị tổ chức bồi dưỡng giáo viên ngoại ngữ và năng lực sư phạm. Các cơ sở giáo dục đại học tiếp tục hoàn thiện, triển khai chương trình ngoại ngữ theo chuẩn đầu ra và ngành, nghề đào tạo (nhất là đối với tiếng Anh), góp phần hỗ trợ sinh viên học và sử dụng ngoại ngữ bảo đảm yêu cầu, chất lượng chuẩn đầu ra khi tốt nghiệp.

Tuy nhiên, cũng theo công bố của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tại kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023, cả nước có 876.102 thí sinh làm bài thi môn tiếng Anh, điểm trung bình của thí sinh là 5,45 điểm, hơn 392.000 thí sinh (44,8%) đạt điểm dưới trung bình, qua đó cho thấy chất lượng dạy và học ngoại ngữ ở nước ta có rất nhiều điểm cần bàn luận và tìm hướng khắc phục.

Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 như internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, tính ứng dụng các thiết bị công nghệ thông tin tác động mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Sự tích hợp tất cả các công nghệ thông minh trên nền tảng công nghệ số để tối ưu hóa mọi quy trình hoạt động, tạo đà phát triển mạnh mẽ, bước đệm vững chãi cho nhân loại, mọi ngành nghề thay đổi phong cách, phương thức làm việc, hợp tác trong mọi mặt. Hơn bao giờ hết, nguồn nhân lực Việt Nam đang đứng trước những cơ hội rộng mở và cả những thách thức hiện hữu, tiềm ẩn một sự dịch chuyển mạnh mẽ đối với đội ngũ lao động trên toàn cầu bởi những đòi hỏi ngày càng cao về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng mềm, kỹ năng số, ngoại ngữ… 

Xuyên suốt quá trình phát triển, ứng dụng sự phát triển của khoa học - công nghệ vào hoạt động dạy và học là một nhu cầu tất yếu nhằm thúc đẩy nền giáo dục lên tầm cao mới, hướng tới nền giáo dục tiên tiến, hiện đại. Xét về cơ hội, bối cảnh hiện tại cùng với quyết tâm của Chính phủ trong hoàn thiện thể chế và chính sách giáo dục chính là tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh ứng dụng thành tựu công nghệ số trong giáo dục nói chung, dạy và học ngoại ngữ nói riêng. Song, nhằm tạo được bước chuyển biến đột phá trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo thông qua công nghệ, để đạt được những thành tựu có chiều sâu và bền vững hơn, các phương pháp và môi trường giảng dạy truyền thống, rập khuôn đã dần bộc lộ sự lạc hậu, không còn phù hợp cho việc dạy và học ngoại ngữ. Thay vào đó là công nghệ đa phương tiện trong các bài giảng điện tử với các hiệu ứng âm thanh, hình ảnh sống động giúp người học tiếp cận được thông tin và cập nhật xu hướng mới nhất dễ dàng hơn. Do đó, nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ ở nước ta hiện nay tất yếu khách quan phải tận dụng những thành tựu hiện đại mà cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.

Sự bùng nổ của công nghệ được xác định là sẽ định hình lại toàn bộ diện mạo của nền giáo dục toàn cầu. Trong lĩnh vực đào tạo ngoại ngữ, các hình thức học tập dựa trên nền tảng công nghệ ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong việc đổi mới phương thức dạy và học. Dòng chảy chuyển đổi số này không chỉ mở ra những cơ hội chưa từng có, mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết về phương pháp dạy và học ngoại ngữ trong kỷ nguyên số. Theo đó, đổi mới phương pháp dạy và học ngoại ngữ hiện nay có thể ứng dụng sự phát triển của khoa học - công nghệ với các nội dung cụ thể như sau:

Một là, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong đổi mới phương pháp dạy và học ngoại ngữ.

Hiện nay, cùng với công nghệ thông tin và tự động hóa, giáo dục không chỉ được tiếp cận theo hướng “đồng phục” mà phải hướng đến hỗ trợ cá nhân hóa. Trí tuệ nhân tạo (AI) trở thành công cụ, người trợ lý rất hữu ích giúp giáo viên giảm tải những công việc hành chính, xây dựng chương trình phù hợp với năng lực của từng cá nhân, giúp giáo viên cung cấp và tổng hợp kiến thức cho bài giảng rất nhanh, kiểm tra, đánh giá mức độ hiểu bài của học sinh... Với nguồn tài nguyên vô cùng phong phú, AI có thể thiết lập các câu đố, phiếu bài tập phù hợp với mục tiêu và tiêu chuẩn của chương trình giảng dạy. Điều này không chỉ tiết kiệm thời gian mà còn giúp giáo viên thu hút và kích thích nhu cầu học tập khác nhau của học sinh trong lớp học, nhờ đó cải thiện trải nghiệm học tập tổng thể.

Hai là, sử dụng học liệu điện tử trong giảng dạy ngoại ngữ.

Học liệu điện tử là tài liệu học tập được cung cấp dưới định dạng điện tử, tích hợp của các dạng thức đa phương tiện, được số hóa khác nhau. Học liệu điện tử (còn gọi là học liệu số) khác với học liệu truyền thống trong cách cung cấp nội dung kiến thức bài học đến với người học, cũng như cách tạo ra sự tương tác giữa người học với các tác nhân khác của quá trình dạy học ngoại ngữ hiện nay. Đến thời điểm này, nguồn học liệu số khổng lồ đã và đang trở thành một phần quan trọng trong giáo dục hiện đại với những lợi ích như tăng tính linh hoạt, cải thiện trải nghiệm học tập, tiết kiệm chi phí, hỗ trợ giáo viên và nâng cao chất lượng giáo dục sẽ tiếp tục giúp nó phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Học liệu số không chỉ giúp học sinh học hiệu quả hơn mà còn mở rộng cơ hội học tập cho mọi đối tượng trong xã hội.

Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, học liệu số sẽ tiếp tục có những cải tiến vượt bậc và ứng dụng rộng rãi hơn trong tương lai. Học liệu số không chỉ giúp người học tiếp cận kiến thức mà còn hỗ trợ họ phát triển các kỹ năng mềm như sáng tạo, tư duy phản biện và khả năng giải quyết vấn đề. Tích hợp các công nghệ tiên tiến vào học liệu số sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng nội dung học tập, giúp mang lại trải nghiệm giáo dục hoàn toàn mới. Công nghệ không chỉ thay đổi phương pháp giảng dạy trong nhà trường mà còn mở ra cơ hội học tập suốt đời cho mọi người, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh trong bài viết Học tập suốt đời: “Cách mạng khoa học công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, tạo nên sự biến cách to lớn trong đời sống xã hội, đặt ra những yêu cầu mới, nhu cầu mới, nhiệm vụ mới, suy nghĩ mới, hành động mới với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt đối với cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là tận dụng tối đa thời cơ, vận hội, đi tắt đón đầu, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện thắng lợi yêu cầu, nhiệm vụ, trọng trách trong giai đoạn mới, học tập suốt đời để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, để trở thành những người hữu dụng đang là đòi hỏi cấp thiết đối với từng cá nhân, mỗi công dân, đặc biệt là những cán bộ, nhân viên trong hệ thống chính trị”. Khi công nghệ ngày càng phát triển, học liệu số sẽ tiếp tục mang lại những tiến bộ mới, giúp giáo dục trở nên toàn diện và dễ tiếp cận hơn.

Ba là, sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong dạy học ngoại ngữ ở nhà trường.

Một trong các giải pháp để đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ là ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong các nhà trường. Với sự phát triển kinh tế của đất nước và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta cho giáo dục, hầu hết các trường học hiện nay đều được quan tâm đầu tư các phương tiện công nghệ thông tin, vì vậy giáo viên phải biết khai thác và kết hợp sử dụng các trang thiết bị dạy học đó sao cho hiệu quả, tránh hình thức và lãng phí.

Cùng với quá trình xây dựng nguồn học liệu số cho giáo viên, học sinh khai thác sử dụng, các nhà trường đã và đang tập trung tăng cường nâng cao kỹ năng số cho đội ngũ giáo viên; ưu tiên bồi dưỡng các nội dung gắn với thực tế công việc như: ứng dụng các phần mềm dạy học, xây dựng bài giảng điện tử, kỹ năng tổ chức dạy học trực tuyến.

Bên cạnh đó, giáo viên có thể xây dựng giáo án điện tử, bài giảng Elearning, sự tích hợp các công nghệ phần mềm dạy học. Bài giảng có thể lưu trữ trên các ổ đĩa hoặc trên một kho tài nguyên học tập trên mạng, người học có thể sử dụng học tập bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu. Bài giảng điện tử có thể sử dụng để thay thế phương pháp dạy học truyền thống “đọc - chép”, đưa ra các ví dụ hoặc ngữ cảnh sử dụng từ, lồng ghép những hình ảnh sống động để người học đoán nghĩa của từ, đưa ra cách đọc và phát âm từ bằng cách thêm audio dạy phát âm nhờ đó người học sẽ dễ dàng nhớ từ mới và tiếp thu bài giảng hơn. Trong quá trình trình bày bài giảng, tùy theo từng nội dung bài học cụ thể mà ứng dụng công nghệ thông tin với những mức độ và hình thức khác nhau.

Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế để bồi dưỡng, nâng cao trình độ, phương pháp cho đội ngũ giáo viên ngoại ngữ ở nước ta hiện nay.

Trên tinh thần chủ động tiếp cận chuyển giao công nghệ và phương pháp dạy học hiện đại thúc đẩy đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Việt Nam đã tăng cường hợp tác với một số quốc gia có nền giáo dục hàng đầu của thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và châu Âu... bằng các bản ghi nhớ, cam kết; hoạt động liên kết trong đào tạo nghề cho sinh viên Việt Nam cũng nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng hội nhập, toàn cầu. Theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI: “Trong 10 năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ động và chủ trì đàm phán, ký kết 161 điều ước và thỏa thuận quốc tế và thúc đẩy quan hệ với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ...”(3). Số lượng các chuyên gia, giảng viên, sinh viên Việt Nam sang học tập kiến thức, kinh nghiệm, nhất là chương trình, nội dung giáo dục của nước bạn ngày càng tăng lên: “Từ năm 2013 đến năm 2022, có 3.535 người là giảng viên các trường đại học và cao đẳng đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Hiện có khoảng gần 200.000 du học sinh Việt Nam đi học nước ngoài ở các bậc trung học phổ thông, đại học và sau đại học, tương đương khoảng 40.000 người mỗi năm (tăng khoảng 2,5 lần so với giai đoạn trước năm 2013)”(4). Nhiều cơ sở giáo dục kể cả công lập và ngoài công lập đã hợp tác với nhiều tổ chức giáo dục uy tín của quốc tế để tiếp nhận các công nghệ hiện đại như “phương pháp dạy học, xây dựng và phát triển chương trình, biên soạn sách giáo khoa và tài liệu giảng dạy; phát triển tổ chức và đội ngũ, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch giáo dục và quản trị cơ sở giáo dục”(5).

Với sự phát triển và những lợi ích to lớn, việc ứng dụng sự phát triển của khoa học - công nghệ vào đổi mới phương pháp dạy và học ngoại ngữ trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn. Đây cũng là giải pháp góp phần cụ thể hóa quan điểm “lấy người học làm trung tâm” theo Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế./.

Ghi chú:

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.37.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Chi bộ, Đảng bộ cơ sở), Nxb CTQG-ST, H. 2025, tr.32.

(3), (4) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, H.2023.

(5) Hải Bình, Thành tựu hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo, Tạp chí Giáo dục và thời đại, ngày 14/7/2017.

ThS Đinh Như Lê - Trường Đại học Giao thông vận tải

Bình luận

Tin tức cùng chuyên mục

Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ giảng viên của các học viện, trường đại học công an nhân dân hiện nay

Ngày đăng 16/05/2025
Tóm tắt: Đội ngũ giảng viên là lực lượng nòng cốt trong công tác giáo dục và đào tạo ở các học viện, trường đại học công an nhân dân. Bài viết phản ánh thực trạng và rút ra những kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng đội ngũ giảng viên của các học viện, trường đại học công an nhân dân hiện nay, qua đó tiếp tục có những định hướng nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ này đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn cách mạng mới. 

Đổi mới hình thức giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam

Ngày đăng 09/05/2025
Tóm tắt: Giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh trong Quân đội nhân dân Việt Nam là hoạt động quan trọng, tác động trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách của quân nhân. Vì vậy, việc đổi mới hình thức giáo dục chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh là yêu cầu cấp thiết hiện nay.   

Nâng cao ý thức huấn luyện quân sự của sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp phân đội ở các sư đoàn bộ binh

Ngày đăng 28/04/2025
Tóm tắt: Ý thức huấn luyện quân sự của sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp phân đội ở các sư đoàn bộ binh là yếu tố quan trọng trong nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu ở đơn vị. Do đó, sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp phân đội cần không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, tình cảm, niềm tin, ý chí, trách nhiệm trong công tác huấn luyện quân sự góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Từ khóa: Nâng cao; Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan chỉ huy tham mưu cấp phân đội; ý thức huấn luyện quân sự.

Phát huy tính đảng của đội ngũ đảng viên là học viên của Học viện Quân y 

Ngày đăng 17/04/2025
Tóm tắt: Xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, coi đó là nội dung cốt lõi của công tác xây dựng Đảng, trong đó phát huy tính đảng của đảng viên chính là yếu tố quyết định tổ chức đảng vững mạnh toàn diện. Thấm nhuần quan điểm đó, Đảng bộ Học viện Quân y luôn quan tâm đến công tác phát triển đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là học viên của Học viện phát triển toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Từ khóa: Đạo đức cách mạng; đảng cầm quyền; phẩm chất chính trị; tính đảng. 

Phát huy vai trò trong quản lý tự học của đội ngũ cán bộ kiêm chức tại Học viện Quân y

Ngày đăng 08/04/2025
Tóm tắt: Đội ngũ cán bộ kiêm chức là thành phần quan trọng trong đội ngũ cán bộ quản lý ở nhà trường quân đội. Tại Học viện Quân y, đội ngũ cán bộ kiêm chức trực tiếp tham gia quản lý, giáo dục, rèn luyện học viên. Vì vậy, phát huy vai trò của đội ngũ này trong tất cả các hoạt động, trong đó có hoạt động tự học là yêu cầu cơ bản để nâng cao uy tín, vị thế, tạo ảnh hưởng trực tiếp, tích cực đến quá trình hình thành nhân cách của học viên, những cán bộ quân y trong tương lai. Từ khóa: Đội ngũ cán bộ kiêm chức; Học viện Quân y; quản lý tự học.

Tiêu điểm

Một số vấn đề lao động việc làm và an sinh xã hội đặt ra từ việc sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước

Tóm tắt: Việc sắp xếp tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là chủ trương đúng đắn và yêu cầu tất yếu khách quan đối với đất nước ta. Bài viết phân tích thực trạng và định hướng về bố trí việc làm sau sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước, qua đó đề xuất một số giải pháp đảm bảo lao động việc làm và hướng tới chính sách an sinh xã hội bền vững đối với cán bộ, công chức chịu sự tác động của việc sắp xếp này. Từ khóa: An sinh xã hội; lao động việc làm; sắp xếp tổ chức bộ máy.